Chương 2:
NHỮNG THƯƠNG TỔN TUỔI THƠ
Tuổi già không có gì hơn tuổi trẻ để đảm nhận chức năng dẫn đường,
vì những gì mà tuổi già đem lại không nhiều bằng những gì nó lấy đi.
HENRY DAVID THOREAU
Khi nghe nói đến “những thương tổn tâm lý và tình cảm tuổi thơ”, chắc bạn nghĩ ngay đến những chấn thương tâm lý nghiêm trọng như lạm dụng tình dục, bị ngược đãi hành hạ hay những thương tổn tinh thần do cha mẹ ly dị, chết hoặc nghiện rượu. Đối với một số người thì đây đúng là những thương tổn mà họ phải chịu từ thời thơ ấu. Tuy nhiên, cho dù bạn có may mắn được lớn lên trong một môi trường an toàn và tràn ngập tình thương, bạn vẫn phải chịu đựng những nỗi đau khổ không thấy được từ thời thơ ấu, bởi vì ngay từ giây phút cất tiếng khóc chào đời, bạn đã là một tạo vật phức tạp và phụ thuộc, với những nhu cầu, đòi hỏi không bao giờ ngưng. Nhà phân tâm học Freud đã định nghĩa rất chính xác loài người là “những sinh vật không biết thỏa mãn”. Và không một bậc sinh thành nào, dù họ có tuyệt vời, xuất sắc đến đâu đi nữa, có thể đáp ứng tất cả những nhu cầu luôn thay đổi này.
Trước khi chúng ta tìm hiểu một số cách thức khó nhận thấy đã làm bạn tổn thương từ nhỏ và vẫn còn tác động đến cuộc hôn nhân của bạn, hãy xem cái sinh vật, chính là bạn, khi vừa mở mắt chào đời như thế nào. Bởi vì lúc đó, bạn là một “tổng thể nguyên vẹn” và từ đây bạn có thể lần theo những dấu vết quan trọng để khám phá ra những ước muốn sâu kính mà bạn hy vọng cuộc hôn nhân sẽ làm thỏa mãn.
Tổng thể nguyên vẹn
Không có một đứa bé sơ sinh nào có cái khả năng kỳ diệu kể lại cho chúng ta nghe về cuộc sống khi còn trong bụng mẹ, nhưng chúng ta vẫn biết được một vài điều về đời sống sinh lý của một bào thai. Chúng ta biết rằng nhu cầu sinh lý của một bào thai là được chăm sóc bằng cách trao đổi dưỡng chất giữa nó và người mẹ. Ta biết rằng bào thai không có nhu cầu ăn, thở hay tự bảo vệ khỏi những nguy hiểm, và nó được xoa dịu bởi nhịp tim của người mẹ. Từ những hiểu biết này và nhờ quan sát các đứa trẻ sơ sinh, chúng ta có thể phỏng đoán rằng bào thai sống một cuộc sống bình lặng và không phải nổ lực gì khi còn trong bụng mẹ. Nó không có ý thức về giới hạn, về bản thân, cũng chẳng có ý niệm gì về việc nó đang nằm trong một cái bọc trong cơ thể mẹ nó. Nhiều người tin rằng khi một đứa bé còn ở trong tử cung của người mẹ, nó có cảm giác về sự hợp nhất, một cảm giác thiên đường, hoàn toàn không vương vấn chút ham muốn trần thế nào. Martin Buber một giáo sư thần học người Israel đã mô tả như sau: “Khi còn là bào thai, chúng ta được nối kết với toàn thể vũ trụ”.
Nhưng cuộc sống bình lặng của bào thai bị cắt ngang đột ngột khi tử cung của người mẹ co thắt để đẩy đứa bé ra. Tuy vậy, trong vài tháng đầu, được gọi là “giai đoạn ảo tưởng”, đứa bé vẫn không phân biệt được nó với thế giới xung quanh. Gần đây, tôi có thêm một cháu bé, và tôi còn nhớ thời kỳ đứa con gái của tôi đang ở giai đoạn này. Khi những nhu cầu vật chất của nó được thỏa mãn, nó rúc đầu vào vòng tay chúng tôi và nhìn ra xung quanh với vẻ hài lòng hoàn toàn. Cũng như những đứa trẻ khác, nó không hề ý thức được rằng mình là một thực thể riêng biệt và cũng không có khả năng phân biệt rõ ràng các ý nghĩ, tình cảm và hành động. Trong mắt tôi, nó đang trải qua tình trạng tinh thần sơ khai, một thế giới duy nhất, không hề có ranh giới phân chia. Mặc dù nó còn chưa trưởng thành và hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ, nó vẫn là một con người hoàn chỉnh, đầy sức sống – và về một phương diện nào đó, nó còn hoàn chỉnh hơn so với toàn bộ phần còn lại của cuộc đời nó.
Khi đã trưởng thành, chúng ta thường chỉ giữ được những kỷ niệm rất mơ hồ về giai đoạn phát triển này, như một giấc mơ rất khó nắm bắt. Chúng ta chỉ nhớ lại được quãng thời gian khi chúng ta đã trở nên độc lập hơn và có liên hệ nhiều hơn với thế giới xung quanh. Vì thế, cảm giác toàn vẹn ở thời kỳ này đã được mô tả trong những huyền thoại của tất cả các dân tộc, như thể cảm giác đó sẽ vay mượn được một chút hiện thực từ câu chữ. Nhưng nó chỉ là một câu chuyện vườn Địa Đàng, và nó lôi cuốn chúng ta bằng hấp lực mạnh mẽ của hoài niệm.
Nhưng điều này có liên quan gì tới hôn nhân? Vì lý do nào đó, chúng ta mong đợi người bạn đời của chúng ta mang lại cho chúng ta cảm giác toàn vẹn ấy như một phép mầu. Điều này giống như thể người bạn đời của chúng ta có trong tay chiếc chìa khóa huyền diệu dẫn về vương quốc xa xưa và tất cả những gì chúng ta làm chỉ là chờ đợi người bạn đời mở cho ta cánh cửa ấy. Việc họ không thực hiện được điều này cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho cuộc hôn nhân, đối với chúng ta, không thật sự hạnh phúc.
Bạn và tôi, chúng ta là một
Cảm giác hợp nhất mà một đứa trẻ có được từ khi ở trong bụng mẹ và mấy tháng sau khi chào đời sẽ dần dần nhạt phai, mở đường cho ý thức rằng mình là một thực thể tách biệt với thế giới xung quanh. Cảm giác về sự hợp nhất vẫn còn đó, những một ý niệm mơ hồ về thế giới bên ngoài dần dần hiện rõ. Chính trong giai đoạn này mà đứa trẻ có một khám phá vĩ đại rằng mẹ nó, sinh vật khổng lồ và dịu dàng vẫn thường bế nó và cho nó ăn, không phải luôn luôn hiện diện cạnh nó. Đứa bé vẫn có cảm giác nối kết với mẹ nó, nhưng đã nhận thức khởi đầu về bản ngã của mình.
Khi đứa bé còn ở trong giai đọan sống cộng sinh này, những nhà tâm lý học cho rằng nó khao khát được liên kết với những người nuôi dưỡng nó. Đây là bước khởi đầu dẫn đến tình cảm quyến luyến, gắn bó sau này giữa cha mẹ và con cái. Toàn bộ năng lượng sống của đứa bé hướng tới mẹ nó, trong nỗ lực tìm lại cảm giác về một sự hợp nhất trên cả hai phương diện tinh thần và vật chất mà nó đã có trước đây. Danh từ để chỉ nỗi khao khát này là “eros”, một từ Hy Lạp mà sau này chúng ta thường đánh đồng với tình cảm luyến ái nam nữ. Nhưng thực chất, từ này nguyên thủy có một nghĩa rộng hơn nhiều, đó là “sinh lực” hay “năng lượng sống”.
Việc đứa bé cảm thấy vừa tách biệt lại vừa liên kết với mẹ nó có một tác động sâu sắc đến tất cả mọi mối quan hệ của nó sau này.
Khi đứa trẻ lớn lên, “eros” sẽ không chỉ hướng tới mẹ nó, mà còn hướng tới cha nó, anh chị em nó và cả thế giới xung quanh nữa. Tôi còn nhớ lúc con gái Leah của tôi được ba tuổi, muốn khám phá mọi vật xung quanh. Nó tràn đầy sức sống đến nỗi nó có thể chạy nhảy suốt ngày mà không biết mệt. “Chạy với con đi ba!”. Nó quay tròn đến khi chóng mặt ngã xuống đất và cười như nắc nẻ. Nó đuổi theo chuồn chuồn, nói chuyện với lá cây, đu bám vào những cành cây thấp và chơi với mọi con chó nó gặp. Cũng như Adam ngày xưa, nó cũng thích gọi tên sự vật và rất háo hức nghe người khác nói chuyện. Khi tôi nhìn Leah, tôi thấy nguồn sinh lực phun trào trong con người nó. Tôi ghen tị với nó và khao hát có lại được những gì mình đã đánh mất.
Helen, vợ tôi và tôi cố gắng giữ cho nguồn năng lượng này sống động mãi trong Leah, cho ánh long lanh còn mãi trong đôi mắt nó, và cho tiếng cười của nó mãi hồn nhiên. Nhưng dù đã cố gắng hết sức, chúng tôi vẫn không đáp ứng được mọi nhu cầu của nó. Đôi khi, dường như chính cuộc sống đang đòi lại năng lượng của mình. Một lần, nó hoảng sợ vì một con chó to và từ đó, nó đã biết cảnh giác trước những con vật lạ. Một lần khác, nó bị ngã vào hồ nước và nó bắt đầu sợ nước. Đôi khi chính chúng tôi phải chịu trách nhiệm về những gì xảy ra. Ngoài Leah, chúng tôi còn có năm đứa con khác, và có những lúc chúng tôi đã bỏ quên Leah vì phải lo cho năm đứa kia. Có những ngày, khi đi làm về, chúng tôi đã quá mệt mỏi không lắng nghe những gì nó nói, quá bận trí không hiểu được nó muốn gì.
Chúng tôi làm thương tổn nó mà không biết, vì chúng tôi cũng từng bị thương tổn như vậy trong thời thơ ấu; đó là di sản cảm xúc mà thế hệ này lại truyền lại cho thế hệ sau. Chúng tôi cố gắng bù đắp cho nó những gì chúng tôi không nhận được từ cha mẹ mình nhưng đồng thời có những lúc cũng gây cho nó những thương tổn tương tự ngoài ý muốn.
Cho dù vì lý do gì đi nữa, khi mong muốn của Leah không được thỏa mãn, một nét ngỡ ngàng thoáng qua trên mặt nó; nó khóc; nó sợ hãi. Nó không còn nói chuyện với lá cây và cũng không còn để ý tới những con chuồn chuồn đang lượn lờ quanh bụi cây. “Eros” đã bị bào mòn và mất dần trong con người nó.
Cuộc hành hương nguy hiểm
Những gì xảy ra cho Leah cũng là những gì đã xảy ra cho tôi và cho cả bạn. Tất cả chúng ta đều khởi đầu cuộc sống với cảm giác toàn vẹn và đầy sức sống, háo hức tìm tới những cuộc phiêu lưu để khám phá thế giới. Nhưng tất cả chúng ta đều phải trải qua một thời thơ ấu đầy nguy hiểm. Trên thực tế, có khi chúng ta đã phải chịu thương tổn ngay từ những tháng đầu của cuộc đời. Những đòi hỏi của một đứa bé là không ngừng. Khi nó thức dậy, nó khóc đòi ăn. Rồi tã lót ướt và nó khóc để mẹ nó tới thay tã cho nó. Và rồi nó muốn mẹ nó bế nó, một khao khát thể chất cũng mãnh liệt nhu cầu được cho ăn. Thế rồi nó lại đói, và lại khóc đòi ăn. Nó bị đầy hơi, và nó khóc vì đau đớn. Nó thông báo cho mẹ nó biết những nhu cầu của nó, nó sẽ được cho ăn, thay tã, bế ẵm hoặc ru ngủ và sẽ có được sự thỏa mãn nhất thời. Nhưng nếu mẹ nó không nhận ra nó muốn gì, hoặc cố ý không thỏa mãn nhu cầu của nó vì sợ làm hư nó, đứa bé sẽ trải qua mối lo sợ đầu tiên trong đời: Nó nhận thấy thế giới không phải là một nơi an toàn. Vì nó không thể tự chăm sóc cho bản thân và cũng không ý thức được rằng nhu cầu của nó sẽ được thỏa mãn nhưng không phải ngay lập tức, nó cho rằng để thế giới bên ngoài kia đáp lại những nhu cầu của nó là một vấn đề sống còn.
Mặc dù tôi và bạn đều không còn nhớ gì về những tháng đầu của cuộc đời, tâm thức cũ của chúng ta vẫn giữ lại những suy luận của tuổi thơ. Dù bây giờ chúng ta đã lớn, đã có thể giữ cho bản thân được no ấm và khô ráo, một phần sâu kín trong con người chúng ta vẫn mong đợi thế giới xung quanh phải quan tâm săn sóc mình. Khi người bạn đời của ta tỏ ra không thân thiện, hay đơn giản là không giúp đỡ ta, một hồi chuông báo động lặng lẽ vang lên sâu trong tâm trí và làm ta hoảng sợ trước cái chết, như ngày còn thơ ấu. Như bạn sẽ thấy, hệ thống báo động này đóng một vai trò chủ chốt trong hôn nhân.
Khi đứa trẻ đã vượt qua thời thơ ấu, những nhu cầu mới lại xuất hiện, và mỗi nhu cầu là một khả năng tạo ra tổn thương nếu nó không được thỏa mãn. Thí dụ như khi đứa trẻ đã được mười tám tháng tuổi, nó nhận thức rõ ràng hơn về ranh giới phân chia giữa nó và những người xung quanh. Đây là giai đoạn phát triển được mô tả là giai đoạn “tự trị và độc lập”. Trong giai đoạn này, đứa trẻ có một ham muốn ngày càng mãnh liệt được khám phá thế giới, xa hơn ngoài vòng tay cha mẹ. Nếu một đứa bé chập chững biết đi có thể nói lưu loát, nó sẽ nói rằng: “Con muốn ra ngoài kia chơi một lúc. Con đã có thể rời vòng tay mẹ và đi một mình. Con cảm thấy vẫn an toàn khi rời khỏi lòng mẹ, nhưng con sẽ quay trở lại ngay để được đảm bảo là mẹ không biến mất”.
Nhưng vì đứa bé chỉ biết bập bõm vài từ, nó sẽ chỉ trèo xuống khỏi lòng mẹ nó, và lẫm chẫm đi ra khỏi phòng. Nếu người mẹ hiểu con thì bà sẽ mỉm cười và nói: “Chào con yêu! Đi chơi vui nhé! Mẹ sẽ ở ngay đây bất cứ khi nào con cần mẹ”. Đó là những phản ứng lý tưởng. Và khi đứa bé quay lại vào phút sau, chợt nhận ra mình hãy còn phụ thuộc vào mẹ như thế nào, người mẹ sẽ nói: “Chào con! Con đi chơi có vui không? Hãy tới để mẹ bế con một lúc nào”. Người mẹ đã để cho đứa bé hiểu rằng nó có thể rời khỏi bà và đi thám hiểm thế giới xung quanh một mình, nhưng bà vẫn luôn ở đó khi nó cần tới. Đứa bé học được một điều rằng thế giới là một nơi an toàn và thú vị để nó khám phá.
Cầu chì và Sứ cách điện
Rất nhiều đứa trẻ đã phải thất vọng ngay từ giai đoạn quyết định này của quá trình phát triển. Một số đứa bé bị cha mẹ ngăn trở khi muốn được độc lập. Chính cha mẹ nó mới là người cảm thấy không an toàn khi nó ra khỏi tầm mắt họ. Vì lý do nào đó – có lẽ đã thừa hưởng từ khi còn nhỏ – cha mẹ nó muốn nó phải lệ thuộc vào mình. Khi đứa bé đi ra khỏi phòng, người mẹ cảm thấy bất an và có thể sẽ nói với nó: “Đừng đi sang phòng bên, không khéo lại ngã đau bây giờ”. Đứa bé vâng lời quay lại với mẹ nó. Nhưng dưới vẻ ngoài vâng lời ấy, nó đang cảm thấy sợ hãi. Mong muốn được tự quản của nó không được chấp nhận. Nó sợ rằng nếu nó cứ luôn luôn chạy trở lại với mẹ nó, nó sẽ bị nhận chìm trong sự hiện hữu của mẹ nó; nó có thể bị trở thành một sinh vật cộng sinh với mẹ nó mãi mãi.
Nỗi sợ bị hòa tan, nhận chìm này trở thành tính cách chủ yếu của đứa bé mà nó không ý thức được. Và vài năm sau, nó sẽ trở thành kiểu người mà tôi gọi là “sứ cách điện”, một dạng người luôn đẩy những người khác ra xa một cách vô thức. Nó giữ những người khác cách xa nó vì nó cần một khoảng không rộng rãi quanh mình, nó muốn được tự do đến và đi theo ý thích, nó không muốn bị ghim chặt trong một mối quan hệ nào đó. Và tất cả những gì ẩn giấu phía dưới lớp vỏ xa cách ấy là một đứa trẻ không được thỏa mãn nhu cầu tự nhiên đòi được độc lập. Khi đứa trẻ lớn lên và lập gia đình, nó sẽ đặt nhu cầu được là một “cá thể” tách biệt lên hàng đầu.
Một số đứa trẻ khác lại có những bậc cha mẹ trái ngược hoàn toàn với mẫu cha mẹ nói trên: những người luôn xua đuổi con mình ra xa khi chúng tìm đến với họ để được an ủi: “Đi chỗ khác chơi, mẹ đang bận”, “Ra chơi với đống đồ chơi của con đi”, hoặc “Đừng có bám nhằng nhẵng theo mẹ như thế!”. Những người như vậy không biết thỏa mãn nhu cầu của con mình mà chỉ biết thỏa mãn nhu cầu của chính mình. Những đứa con của họ sẽ lớn lên với cảm giác bị bỏ rơi về mặt tình cảm. Cuối cùng, chúng sẽ trở thành kiểu người mà tôi gọi là “cầu chì”, những người luôn có nhu cầu vô tận được gần gũi người khác. Những “cầu chì” luôn muốn “nối kết mọi vật lại với nhau”. Nếu người khác lỡ hẹn với họ, họ sẽ có cảm giác bị bỏ rơi. Ý nghĩ ly dị khiến họ kinh hoàng. Họ khao khát tình thương và sự đảm bảo, và họ thường có nhu cầu luôn luôn giữ mối liên hệ thường trực với bạn bè. Và phía dưới thái độ phụ thuộc này là một đứa trẻ muốn được cha mẹ ôm ấp nhiều hơn nữa.
Vì những lý do tôi sẽ nói trong những chương sau, những người dạng “cầu chì” và dạng “sứ cách điện” lại có khuynh hướng lấy nhau, và vì thế mở đầu cho một trò chơi đuổi bắt giằng co mà cả hai bên không ai hài lòng cả.
Trong quá trình đi qua tuổi thơ, bạn đã trải qua nhiều giai đoạn này kế tiếp nhau, và thái độ cha mẹ bạn đáp ứng lại những nhu cầu luôn thay đổi của bạn sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tình cảm sau này của bạn. Thông thường, họ đáp ứng những nhu cầu của bạn trong giai đoạn này tốt hơn những giai đoạn khác. Họ có thể chăm sóc bạn một cách tuyệt vời khi bạn còn là một đứa bé, nhưng lại lúng túng khi phải đối phó với phản ứng bất bình đầu tiên trong đời bạn. Hoặc họ có thể thấy vui thích vì tính hiếu kỳ tự nhiên của bạn khi bạn chập chững biết đi nhưng lại hoảng sợ vì tình trạng bị cuốn hút đối với cha hoặc mẹ khi bạn năm nay sáu tuổi. Cha mẹ bạn có thể đáp ứng hầu hết những nhu cầu của bạn, hay chỉ đáp ứng một vài điều, nhưng, cũng như những đứa trẻ khác, sớm muộn gì bạn cũng phải trải qua những đau khổ khi nhu cầu của bạn không được đáp ứng. Những nhu cầu này sẽ theo đuổi bạn mãi về sau và gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc hôn nhân của bạn.
Bản ngã bị mất
Tới đây, chúng ta đã tìm hiểu một đặc điểm quan trọng của cái thế giới bí ẩn mà tôi gọi là “hôn nhân vô thức”, đó là nơi lưu trữ những nhu cầu không được thỏa mãn của tuổi thơ, những đòi hỏi được chăm sóc bảo vệ và được trưởng thành, nhưng đã không được đáp ứng. Bây giờ, chúng ta sẽ nghiên cứu một loại thương tổn tuổi thơ khác, loại thương tổn tâm lý còn khó nhận thấy hơn với tên gọi “sự xã hội hóa”. Đó là tất cả những thông điệp mà ta nhận được từ cha mẹ và từ xã hội, cho ta biết ta là ai và ta phải xử sự như thế nào. Những thương tổn này cũng đóng một vài trò quan trọng trong cuộc hôn nhân sau này.
Lúc đầu, có thể bạn thấy lạ khi tôi đặt sự xã hội hóa ngang với những thương tổn tâm lý. Để giải thích tại sao, tôi muốn kể lại câu chuyện của một trong những thân chủ của tôi.
Sarah là một phụ nữ hấp dẫn và duyên dáng ở độ tuổi trên ba mươi. Mối bận tâm chính của cô là sự bất lực không thể suy nghĩ một cách rõ ràng và hợp lý. Cô nhắc đi nhắc lại với tôi: “Tôi không suy nghĩ được. Tôi không sao suy nghĩ được”. Cô là một quản lý cấp thấp của một công ty máy tính, nơi cô đã làm việc cần cù suốt mười lăm năm qua. Nếu có có khả năng giải quyết vấn đề một cách hiệu quả, có lẽ cô đã tiến xa. Nhưng mỗi khi đối diện với một khó khăn nào đó, cô lại hoảng sợ và chạy tới cầu cứu cấp trên. Họ cho cô những lời khuyên khôn ngoan và điều đó càng củng cố thêm niềm tin của Sarah rằng cô chẳng có chút khả năng tự quyết định nào.
Tôi không mất nhiều công sức khám phá ra lý do của tình trạng này. Ngay từ khi còn thơ dại, mẹ Sarah đã tuyên bố thẳng thừng với cô là cô chẳng thông minh gì cho lắm. Mẹ cô thường nói: “Con chẳng được thông minh sáng láng như anh con đâu” và “Con nên lấy một anh chàng thông minh, vì con phải nhờ vả anh ta rất nhiều. Nhưng mẹ không biết liệu một đứa thông minh có chịu lấy con không”. Những nhận xét này chẳng phải do mẹ cô nhận thấy cô thực sự không thông minh mà chỉ thể hiện một quan điểm thông thường của thập niên 50: rằng các cô gái thì phải dịu dàng, xinh đẹp, biết phục tùng và không được phép thông minh đặc biệt. Những cô gái cùng học với Sarah mơ ước trở thành những người vợ, những y tá, giáo viên, chứ không phải là những bác sĩ, phi hành gia hay nhà doanh nghiệp.
Một tác động khác ảnh hưởng đến Sarah là việc chính mẹ cô cũng thiếu tự tin vào khả năng phán đoán hợp lý của mình. Bà trông nom nhà cửa và chăm sóc con cái, nhưng luôn dành cho chồng quyền quyết định trong mọi vấn đề quan trọng. Lối xử sự thụ động và lệ thuộc này đã tạo nên “nữ tính” của Sarah.
Khi Sarah mười lăm tuổi, cô may mắn gặp được một giáo viên đã nhận ra khả năng tự nhiên của cô và động viên cô chăm chỉ học tập. Lần đầu tiên trong đời, Sarah trở về nhà với một bài kiểm tra có số điểm gần như tuyệt đối. Và cô đã không bao giờ quên được thái độ của mẹ mình khi đón nhận tin này: “Làm sao lại như vậy được? Mẹ đánh cuộc là con sẽ chẳng thể đạt được điều này lần nữa”. Và quả thật Sarah đã không làm được, bởi vì rốt cuộc cô đã đầu hàng và để cho khả năng suy nghĩ bình tĩnh và hợp lý ngủ quên trong đầu.
Nhưng bi kịch không chỉ là Sarah mất khả năng suy nghĩ hợp lý mà còn là cô có một niềm tin vô thức rằng suy nghĩ là một việc nguy hiểm. Tại sao lại như vậy? Vì mẹ Sarah đã phủ nhận hoàn toàn khả năng suy nghĩ của cô nên cô tin rằng nếu cô cứ tiếp tục suy nghĩ hợp lý, cô sẽ thách thức mẹ mình, sẽ chối bỏ những nhận xét của mẹ về mình. Cô không thể liều lĩnh làm cho mẹ giận ghét được, bởi vì cô vẫn còn lệ thuộc vào bà để sống. Do đó, đối với Sarah, biết được rằng mình cũng có trí thông minh là một điều nguy hiểm. Nhưng cô vẫn không thể chối bỏ hoàn toàn trí thông minh của mình. Cô ghen tị với những người có thể suy nghĩ, và khi kết hôn, cô đã chọn một người thông minh đặc biệt. Đó là một việc làm vô thức để bù đắp cho những thương tổn tâm lý của tuổi thơ.
Cũng như Sarah, chúng ta đều có những phần trong con người mà chúng ta giấu kín trong vô thức. Tôi gọi những yếu tố lẩn khuất này là “bản ngã bị mất”. Bất cứ khi nào ta than phiền rằng “không thể suy nghĩ” hay ta “không cảm thấy gì” hay “không thể khiêu vũ” hoặc “không có khả năng sáng tạo”, chúng ta đang xác định những khả năng tự nhiên, những ý nghĩ hoặc những cảm xúc mà ta đã bị tước đoạt khỏi nhận thức. Tất cả những khả năng, ý nghĩ hay cảm xúc đó không bị biến mất; ta vẫn còn sở hữu chúng. Chúng chỉ bị chìm xuống phần vô thức và đối với ta, chúng dường như không còn tồn tại.
Như trong trường hợp của Sarah, phần bản ngã bị mất của chúng ta đã xảy ra từ khi chúng ta còn nhỏ – thông thường đó là do những người nuôi dưỡng ta đã cố gắng có chủ ý dạy cho ta cách hòa hợp với những người khác. Mỗi xã hội đều có những luật lệ, xác tín và những thang giá trị mà đứa trẻ cần phải nắm được, và cha mẹ chính là đường dẫn truyền những quy tắc luật lệ đó tới đứa trẻ. Quá trình truyền thục này xảy ra trong mọi gia đình, mọi xã hội. Dường như, toàn thể xã hội cho rằng nếu một cá nhân nào đó không bị những quy tắc luật lệ trói buộc thì cá nhân đó sẽ trở nên nguy hiểm cho cộng đồng. Nhà phân tâm học Freud đã viết, “Mong muốn có một cái tôi tự do và đầy quyền lực đối với chúng ta là điều dễ hiểu, nhưng trong thời đại mà ta sống, đó lại là cảm thức sâu kín nhất đối kháng với văn minh”.
Nhưng cho dù cha mẹ chúng ta luôn muốn những điều tốt nhất cho chúng ta, những thông điệp truyền đến chúng ta đều là những thông điệp làm giảm nhiệt tình. Có những ý nghĩ và cảm xúc mà ta không được phép có, những hành vi cư xử tự nhiên mà chúng ta phải từ bỏ, những năng khiếu mà ta phải dập tắt. Với hàng ngàn phương cách, cả ám chỉ lẫn công khai, cha mẹ chúng ta khiến cho chúng ta hiểu rằng chỉ một phần nào đó trong con người chúng ta là được chấp nhận. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta được bảo cho biết rằng chúng ta không thể sống với toàn bộ bản ngã mà tồn tại được trong xã hội.
Những cấm kỵ thân xác
Một trong những vùng chúng ta bị cấm đoán nhiều nhất là thân thể của chúng ta. Ngay từ khi còn rất nhỏ, chúng ta đã được dạy phải che phủ cơ thể và không được nói tới hay chạm vào bộ phận sinh dục. Những cấm đoán này phổ biến đến nỗi chúng ta chỉ nhận ra chúng khi có ai đó vi phạm. Một người bạn của tôi đã kể cho tôi nghe một câu chuyện cho thấy việc cha mẹ không truyền đạt lại cho con cái những cấm kỵ bất thành văn này sẽ gây sốc như thế nào. Người bạn gái của bạn tôi tên là Chris cùng đứa con trai mười một tháng tuổi, một hôm ghé lại thăm cô bạn tôi. Cô bạn tôi, Chris và đứa bé ngồi ở sân thượng phía sau nhà và uống trà. Vì nắng tháng Năm rất ấm, Chris cởi bỏ quần áo của đứa bé để cho nó phơi nắng. Hai người phụ nữ ngồi tán gẫu với nhau trong khi đứa bé bò quanh sân, sung sướng chọc ngón tay vào đất xốp trong chậu cây. Khoảng nửa tiếng sau, đứa bé thấy đói bụng, và Chris bế nó lên để cho bú. Khi đứa bé bú, dương vật của nó có tình trạng cương cứng nhẹ. Rõ ràng, bú mẹ làm nó cảm thấy vui sướng khắp toàn thân. Theo bản năng, đứa bé đưa tay xuống sờ vào dương vật. Không như những bà mẹ khác, Chris không kéo tay con ra. Con cô được phép cảm nhận ánh nắng mặt trời ấm áp bằng toàn bộ bề mặt da của cơ thể, được phép bú sữa từ bầu vú mẹ, được phép có sự cương cứng dương vật và cộng thêm vào tất cả những sự thích thú đó, nó được phép tuân theo bản năng và chạm vào dương vật.
Đối với một đứa bé thì mong muốn được hưởng những cảm giác thú vị này là điều bình thường và tự nhiên. Nhưng chúng ta không mấy khi để điều đó xảy ra. Mẹ của đứa bé đó, khi cho phép con mình hưởng những cảm giác thú vị ấy, đã phá vỡ khá nhiều quy tắc xã hội. Quy tắc đầu tiên mà cô đã phá vỡ là nếu muốn cho con bú, người phụ nữ phải làm việc đó ở nơi kín đáo để người khác không nhìn thấy được bộ ngực trần của người mẹ. Điều thứ hai, trẻ con lúc nào cũng phải mặc quần áo, ít ra thì cũng đựơc quấn tã, cho dù chúng đang chơi ngoài trời dưới ánh nắng ấp áp. Điều thứ ba, những cậu bé và cô bé không được phép có bất kỳ hình thức nào của khoái lạc nhục dục, nhưng nếu vì lý do nào đó chúng có tình trạng đó, thì chúng cũng không được phép hưởng thụ. Bằng việc cho phép con cảm nhận tất cả những thích thú đó, Chris đã vi phạm vào ba điều cấm kỵ của xã hội.
Ở đây, tôi không có ý định đả kích những cấm đoán thân xác của xã hội. Việc đó phải cả một cuốn sách mới nói hết. Nhưng để hiểu được những ước vọng sâu kính ảnh hưởng tới cuộc hôn nhân của bạn, bạn cần phải biết điều này: Khi còn nhỏ, có rất nhiều lần bạn đã bị ngăn cấm khi muốn hưởng thụ điều gì đó. Cũng như phần lớn những đứa trẻ khác, bạn có thể đã bị những tác động khiến cho bạn cảm thấy ngượng ngùng hoặc có tội khi bạn có một thân thể có khả năng cảm nhận những khoái lạc tinh tế. Để trở thành một cô bé hoặc cậu bé “ngoan”, bạn phải phủ nhận hoặc chối bỏ phần con người này của bạn.
Những cảm xúc bị cấm đoán
Cảm xúc của bạn cũng là một trong những nguyên liệu thô cần xử lý qua quá trình xã hội hóa. Đương nhiên, một số cảm xúc khác không chỉ được phép có mà còn được khuyến khích. Cha mẹ bạn đã cố gắng biết bao để bạn nở nụ cười khi bạn còn là một đứa trẻ! Và một vài tuần sau, khi bạn đã biết cười to, cả nhà thật là vui. Nhưng giận dỗi lại là chuyện khác. Những cơn phẫn nộ đều gây ồn ào khó chịu và các bậc cha mẹ đều cố hết sức dập tắt chúng. Họ làm điều này bằng nhiều cách. Một số người trêu chọc con họ: “Con trông mới đáng yêu làm sao lúc con nổi khùng lên như thế này. Mẹ thấy con sắp cười rồi kìa. Cười đi, cười lên đi nào”. Những người khác lại la mắng con: “Con có im ngay đi không! Đi vào phòng ngay. Mẹ không muốn nói lại chuyện này nữa đâu”. Còn những người mềm yếu lại vội nhượng bộ: “Thôi được rồi. Con cứ làm theo ý con đi. Nhưng lần sau, đừng có làm những chuyện như vậy nữa”.
Hiếm có bậc cha mẹ nào cho phép con mình giận dữ. Hãy thử tưởng tượng xem một cô bé đang giận dỗi sẽ trả lời như thế nào nếu cha cô bé nói như sau: “Bố biết là con rất giận. Con không muốn làm những điều bố yêu cầu. Nhưng bố là bố của con, do đó con phải nghe lời bố”. Biết rằng cha mẹ thừa nhận cơn giận dữ của mình, đứa trẻ sẽ vững tin hơn vào bản ngã của nó. Nó sẽ tự nhủ: “Ta tồn tại. Cha mẹ ta đã biết đến cảm xúc của ta. Có thể không phải lúc nào ta cũng đạt được ý muốn nhưng ít ra ta cũng được cha mẹ lắng nghe và tôn trọng”. Nó được phép giận dữ và được phép giữ lại một phần quan trọng con người nó.
Nhưng đó không phải là trường hợp của phần lớn những đứa trẻ khác. Có lần tôi đang ở trong một cửa hàng bách hóa và đã tình cờ chứng kiến cảnh cơn giận của một đứa trẻ bị dập tắt nhanh chóng đến thế nào – đặc biệt là khi cơn giận đó lại hướng tới người sinh ra nó. Một phụ nữ đang mua sắm quần áo trong khi đứa con trai khoảng bốn tuổi của cô ta lẽo đẽo theo sau. Cô ta đang mải mê lựa chọn quần áo, không để ý gì đến đứa bé, còn cậu bé thì cứ tiếp tục độc thoại để cố lôi kéo sự chú ý của mẹ. Nó nói: “Con không thể đọc được những chữ này, mẹ ơi”, đồng thời chỉ tay vào tấm biển đề “M.A.D.E”. Mẹ nó không có phản ứng gì. “Mẹ có còn thử thêm nhiều quần áo nữa không mẹ?”. Vẫn không có câu trả lời. Trong suốt thời gian tôi quan sát họ, người phụ nữ chỉ chú ý đến con mình trong một vài giây và khi đó, cô ta tỏ vẻ khó chịu và bực bội. Cuối cùng tôi nghe thấy đứa bé nói to và rõ ràng với người bán hàng: “Mẹ cháu bị tai nạn ô tô. Bà ấy chết rồi”. Câu tuyên bố này lập tức thu hút được chú ý của mẹ nó. Cô ta túm lấy hai vai thằng bé lắc mạnh, tát nó một cái và giận dữ giúi nó ngồi xuống một chiếc ghế. “Con nói cái quỷ gì thế? Mẹ không bị tai nạn. Bỏ cái kiểu ăn nói láo lếu ấy đi. Ra đằng kia ngồi yên ở đấy và câm miệng lại. Mẹ không muốn nghe thấy con nói gì nữa”. Mặt thằng bé trắng bệch ra. Nó ngoan ngoãn ngồi xuống không nói thêm câu nào cho tới khi mẹ nó mua sắm xong.
Trong đầu thằng bé, cơn giận dữ của nó với mẹ nó đã chuyển thành một câu chuyện tưởng tượng nhầm báo thù mẹ nó. Trong câu chuyện đó, mẹ nó đã bị chết trong một tai nạn xe cộ. Nó không thể làm gì mẹ nó được. Mới bốn tuổi, nó đã được dạy phải chối bỏ mọi ý nghĩ và tình cảm giận dữ. Thay vào đó, nó đã tưởng tượng rằng mẹ nó đã va phải một chiếc xe hơi và chết.
Khi bạn còn trẻ, chắc cũng có nhiều lần bạn giận dữ với cha mẹ bạn. Đó là thứ cảm xúc ít được chấp nhận nhất. Sự giận dữ, khoái lạc nhục dục và rất nhiều những ý nghĩ hay tình cảm mang tính “phản xã hội” khác bị đẩy xuống dưới sâu trong con người bạn và bạn không bao giờ được để lộ ra.
Một số bậc cha mẹ đã đầy việc phủ nhận bản ngã của con mình đến cực điểm. Họ không chỉ phủ nhận tình cảm và cách cư xử của con, mà còn phủ nhận chính sự tồn tại của đứa trẻ. “Mày không là cái thá gì trong gia đình này. Mọi nhu cầu, tình cảm hay ước muốn của mày đối với chúng tao đều chẳng có giá trị gì”. Tôi đã từng chữa trị cho một phụ nữ trẻ tên là Carla. Cha mẹ cô đã phủ nhận sự tồn tại của cô đến mức họ làm cô có cảm giác mình vô hình. Mẹ cô là một người nội trợ không chê vào đâu được và bà luôn nhắc nhở con gái phải “dọn dẹp sạch sẽ mọi thứ sau khi đã dùng xong để không ai có thể nói là con đang ở đây”. Carla chỉ được phép bước lên những tấm plastic đặt trên thảm. Trong nhà có một khoảng sân được trang trí rất đẹp nhưng không có chỗ để chạy xe, hay tập thể dục. Carla hãy còn nhớ như in, có làn cô đã ngồi trong bếp suốt cả ngày, cảm thấy chán nản và chỉ muốn chết. Lúc đó, cô khoảng mười tuổi. Cha mẹ cô đi lại trong bếp nhiều lần mà thậm chí không hề biết đến sự có mặt của Carla. Từ đó, Carla bắt đầu có cảm giác mình không có cả một cơ thể hữu hình. Không có gì đáng ngạc nhiên là khi cô mười ba tuổi, cô trở nên biếng ăn, nói một cách khác, cô có ý tuyệt thực để không phải tồn tại nữa.
Những công cụ đàn áp
Trong cố gắng muốn đè nén những ý nghĩ tình cảm hay hành vi nào đó, cha mẹ thường sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Có khi họ đưa ra những mệnh lệnh rõ ràng: “Con không được nghĩ như thế”. “Con trai lớn rồi ai lại khóc”. “Bố không muốn nghe con nói như vậy nữa đâu!”, “Trong nhà nhày không ai được phép cư xử như vậy!”. Hoặc giống như bà mẹ mà tôi thấy trong cửa hàng, họ rầy la, dọa dẫm hoặc đánh đứa trẻ. Thông thường thì họ uốn nắn đứa trẻ bằng nhiều cách khác tinh vi hơn, đơn giản là họ cố ý không nhận thấy hoặc không tán thành những hành động mà họ không thích. Ví dụ như, nếu cha mẹ đứa trẻ không coi trọng lắm các giá trị tinh thần như kiến thức hoặc sự phát triển trí tuệ chẳng hạn, thì họ sẽ chỉ đưa cho đứa trẻ những thứ đồ chơi hay dụng cụ thể thao thay vì sách vở hay đồ dùng học tập. Nếu họ tin rằng con cái phải nhu mì nữ tính, còn con trai thì phải mạnh mẽ và quyết đoán, họ sẽ chỉ tỏ ra tán thành con khi nó có những hành động đúng theo ý họ muốn. Ví dụ, nếu đứa con trai nhỏ của họ mang một món đồ chơi nặng vào phòng, họ sẽ nói: “Con trai tôi mới khỏe làm sao!”. Nhưng nếu đó lại là đứa con gái mang món đồ chơi ấy thì họ lại nhắc nhở: “Coi chừng con làm rách cái áo đẹp bây giờ”.
Tuy nhiên, cha mẹ ảnh hưởng tới con cái nhiều nhất bằng cách nêu gương cho đứa trẻ. Trẻ con, theo bản năng, luôn quan sát cách cha mẹ chúng hành xử. Cha mẹ chọn lựa điều gì, nghỉ ngơi và giải trí ra sao, phát huy những khả năng nào và tuân theo những quy tắc nào, tất cả những điều ấy, trẻ con đều để ý và đều có những ảnh hưởng sâu sắc đối với chúng. Chúng sẽ tâm niệm rằng: “Đây là cung cách mà ta phải theo”. Cho dù trẻ con chấp nhận hay phản đối lối sống của cha mẹ chúng, những ảnh hưởng của lối sống ấy vẫn tác động đến quá trình chọn lựa bạn đời của chúng sau này và như chúng ta sẽ thấy, đó cũng là nguyên nhân sâu kính gây ra những điều rắc rối trong hôn nhân.
Phản ứng của một đứa trẻ trước những quy tắc xã hội thường là theo một số giai đoạn có thể đoán trước được. Thông thường, những phản ứng đầu tiên của đứa trẻ sẽ là che giấu cha mẹ những hành vi bị cấm đoán. Nếu nó có giận dữ cha mẹ, nó cũng không để lộ điều đó ra. Nó khám phá thân thể mình trong phòng riêng, nơi nó có thể làm tất cả những gì nó muốn. Nó trêu chọc em nó khi cha mẹ vắng nhà. Cuối cùng, đứa trẻ kết luận rằng có một số ý nghĩ và tình cảm không thể chấp nhận được, do đó cần phải loại bỏ. Vì thế, nó sẽ tự tạo nên một vị quan tòa tưởng tượng trong đầu để xét đoán những hành vi và ý nghĩ của nó. Những nhà tâm lý học gọi vị quan toàn tưởng tượng này là “siêu ngã”. Bây giờ, mỗi khi đứa trẻ có một ý nghĩ sai trái hay có những hành động “không thể chấp nhận được”, nó sẽ cảm thấy vô cùng lo lắng vì nó tự cảm thấy có lỗi. Điều này đối với nó khó chịu đến nỗi nó quyết định để những phần bản ngã bị cấm đoán này vào góc sâu kính nhất trong con người nó và lãng quên chúng đi – theo như thuật ngữ của Freud, nó đã dồn nén chúng. Cái giá phải trả cho sự vâng lời này là đứa trẻ đã bị mất tính toàn vẹn.
Bản ngã giả tạo
Để lấp vào chỗ trống do những phần bản ngã bị mất, đứa trẻ tạo ra một “bản ngã giả”, một hệ thống những tính cách phục vụ cho hai mục đích: ngụy trang phần bản ngã bị mất và tránh cho nó khỏi bị thương tổn thêm nữa. Ví dụ như một đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi người mẹ lạnh nhạt và bị ức chế về mặt tình dục, khi lớn lên, nó sẽ trở thành một “anh chàng lãnh đạm”. Anh ta tự nhủ: “Mình chẳng quan tâm đến chuyện mẹ mình sống có tình cảm không. Mình chẳng thiết những thái độ sướt mướt ủy mị vớ vẩn. Mình có thể sống mà chẳng cần đến ai. Hơn nữa, chuyện tình dục thật dơ bẩn!”. Cuối cùng, anh ta áp dụng kiểu suy nghĩ này cho mọi trường hợp. Bất kỳ ai muốn lại gần anh ta, anh ta đều dựng lên một bức tường ngăn cách. Sau này, khi đã gạt bỏ được ác ảm đối với tình yêu và chọn được cho mình một cô bạn, anh ta có khuynh hướng kết tội cô vì cô luôn mong muốn có sự thân mật giữa hai người: “Tại sao cô lại nhiễu sự đến thế, lúc nào cũng muốn cận kề nhau, gần gũi nhau. Điều này thật không bình thường!”
Nhưng đứa trẻ ấy cũng có thể phát triển tính cách theo chiều hướng khác. Nó phóng đại những nỗi khổ nó phải chịu, hy vọng rằng sẽ có ai đó đến với nó để cứu giúp nó: “Tôi thật đáng thương! Tôi khổ sở quá! Tôi bị tổn thương sâu sắc. Tôi cần có ai đó quan tâm chăm sóc tôi”. Đứa khác lại có thể trở thành một kẻ tích trữ tình thương, cố gắng cóp nhặt từng chút tình cảm của người như thể bao nhiêu tình cảm trên thế gian dành cho nó cũng vẫn không đủ. Nhưng dù bản ngã giả tạo có như thế nào đi nữa, mục đích của nó vẫn là giảm thiểu sự mất mát của phần bản ngã bị dồn nén đã làm mất đi tính toàn vẹn nguyên thủy.
Bản ngã bị chối bỏ
Tuy nhiên, tới một lúc nào đó, những phương cách tự vệ khéo léo này sẽ trở thành lý do để đứa trẻ bị buộc tội là có những tính xấu. Những người khác lên án nó vì no lạnh nhạt quá hoặc ủy mị quá hoặc ích kỷ hoặc keo kiệt. Những người đó không thấy được rằng nó đang cố tự bảo vệ để tránh bị tổn thương và họ cũng không nhận ra sự khôn ngoan trong phản ứng tự vệ của nó: Tất cả những gì họ thấy chỉ là khía cạnh dễ bị kích động trong tính cách đứa trẻ. Người ta cho rằng nó là đứa trẻ không tốt, không ngoan.
Bây giờ đứa trẻ bị kẹt giữa hai làn đạn. Nó cần những tính cách mới này vì chúng phục vụ cho những mục đích có ích, nhưng nó cũng không muốn bị xã hội tẩy chay. Giải pháp duy nhất là phủ nhận hoặc lật ngược lại những lời buộc tội: “Tôi không phải là người lạnh lùng xa cách”. Nó tự bào chữa cho mình: “Thực ra, tôi là người mạnh mẽ và độc lập”. Hoặc: “Tôi không phải là người mếm yếu và dựa dẫm, mà là người nhạy cảm”. Hoặc “Tôi không phải là kẻ tham lam và ích kỷ, mà là người tiết kiệm và thận trọng”. Nói cách khác nữa là: “Tôi không phải người như vậy. Các người chỉ biết nhìn tôi với con mắt thành kiến và ác cảm”.
Trên phương diện nào đó thì nó đúng. Những tính cách đó không có sẵn trong con người nó. Chúng đã hình thành từ những đau khổ nó đã trải qua và trở thành một phần nhân cách, trở thành vũ khí giúp nó tồn tài trong thế giới phức tạp và đầy thù địch này. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là nó không có những tính cách đó. Có rất nhiều người có thể làm chứng rằng, nó quả là có những tính xấu đó. Nhưng để bảo vệ hình ảnh tốt đẹp của bản thân và tạo cơ hội sống còn, nó buộc phải phủ nhận chúng. Những tính xấu này trở thành phần “bản ngã bị chối bỏ”, những tính cách thuộc về bản ngã giả tạo mà nó không muốn biết tới.
Ta hãy tạm dừng tại đây và sắp xếp lại sự hình thành của những phần bản ngã khác nhau. Hiện nay, chúng ta đã phân chia bản ngã của con người thành ba thực thể:
1. “Bản ngã bị mất”, phần bản ngã mà bạn phải trấn áp theo yêu cầu của xã hội.
2. “Bản ngã giả tạo”, vẻ bề ngoài bạn dựng lên để lấp chỗ trống tạo ra bởi bản ngã bị mất và bởi cung cách giáo dục sai lầm.
3. “Bản ngã bị chối bỏ”, những phần tiêu cực của bản ngã giả tạo không được xã hội chấp nhận và vì vậy bị chối bỏ.
Phần duy nhất của bức tranh cắt dán này mà bạn ý thức được, hoàn toàn là những phần vẫn còn nguyên vẹn thuộc về bản chất nguyên thủy của bạn, và một vài khía cạnh thuộc về bản ngã giả tạo. Tất cả những gì tạo nên bức tranh cắt dán này cũng là những gì tạo nên “nhân cách” của bạn, hình ảnh mà bạn sẽ dùng để mô tả chính mình. Phần bản ngã bị mất hầu như hoàn toàn nằm ngoài khả năng ý thức của bạn, bạn đã cắt đứt mọi mối dây liên hệ với nó. Còn phần bản ngã bị chối bỏ, những mặt tiêu cực của bản ngã giả tạo thì lượn lờ ngay dưới bề mặt của ý thức và luôn nơm nớp lo sợ bị lôi ra ánh sáng. Để che giấu nó, bạn tìm mọi cách phủ nhận nó hoặc chụp nó lên đầu người khác. “Tôi không ích kỷ”, bạn sẽ giận dữ nói như vậy hoặc la lên: “Anh nói gì? Tôi lười nhác ấy à? Chính anh mới là kẻ lười nhác”.
Chuyện ngụ ngôn của Plato
Có một chuyện ngụ ngôn trong tác phẩm Bữa tiệc đêm của Plato đã đưa ra một lời giải thích hoang đường cho tình trạng phân ly của loài người. Câu chuyện kể rằng, từ xa xưa, con người là những tạo vật ghép có cả hai giới tính nam và nữ. Mỗi người đều có một đầu với hai khuôn mặt, bốn chân, bốn tay và hai bộ phận sinh dục, nam và nữ. Vì được hợp nhất toàn vẹn nên tổ tiên của loài người có một sức mạnh lớn lao. Trên thực tế, những sinh vật lưỡng tính này hùng mạnh đến độ họ dám cả gan tấn công các thần linh. Dĩ nhiên là các thần chẳng để yên, nhưng họ không biết phải trừng phạt con người như thế nào. Họ nói với nhau: “Nếu ta giết chúng, sẽ chẳng còn ai tôn thờ và tế lễ ta nữa”. Thần Zeus đã cân nhắc rất lâu trước khi đưa ra một giải pháp: “Con người sẽ vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng chúng sẽ bị tách đôi. Ta sẽ lấy đi bớt một phần sức mạnh của chúng và ta sẽ không phải lo sợ vì chúng nữa”.
Sau đó, thần Zeus tách mỗi con người làm đôi và sai thần Aplollo làm kín miệng vết thương. Hai nữa người được bỏ ở hai nơi cách xa nhau và phải sử dụng phần đời còn lại để tìm kiếm điên cuồng nửa kia của mình, tìm kiếm sự hợp nhất với phần nửa sẽ đem tới cho mình sự toàn vẹn.
Cũng như tạo vật hoang đường của Plato, con người chúng ta phải trải qua cuộc sống cũng bị cắt thành hai nửa. Chúng ta tìm mọi cách làm lành vết thương rướm máu, nhưng mặc cho những cố gắng vô vọng ấy, một nỗi cô đơn vẫn tràn ngập trong ta khiến ta phải lấp đầy bằng thức ăn, bằng ma túy và bằng hoạt động. Nhưng những gì chúng ta thật sự khao khát là trạng thái toàn vẹn nguyên thủy, là tất cả những cung bậc tình cảm, là tính hiếu kỳ bẩm sinh, là niềm vui thuần khiết mà ta được hưởng khi còn rất nhỏ. Nó trở thành một niềm khao khát tinh thần, và như trong truyện thần thọai của Plato, chúng ta có một niềm tin sâu thẳm rằng nếu tìm được đúng người – nửa kia còn thiếu – chúng ta sẽ đạt được sự đầy đủ toàn vẹn. Con người đặc biệt này không phải bất kỳ ai, không phải là người đàn ông hay đàn bà đầu tiên chúng ta thấy có một nụ cười quyến rũ hay có tính tình dễ chịu. Đó phải là con người làm cất lên trong ta một tiếng nói bí mật, bảo ta rằng: “Đây chính là người ta đã tìm kiếm bấy lâu! Đây chính là người sẽ hàn gắn vết thương từ trong quá khứ!”. Và vì những lý do tôi sẽ đưa ra trong chương kế tiếp, người đó luôn là người có cùng tính cách cả tốt lẫn xấu giống tính cách của cha mẹ chúng ta!
đến chương 3 >>
Bình luận về bài viết này