Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘12. Truyền thông…’ Category

Chương 12:

ĐƯƠNG ĐẦU VỚI

NHỮNG TRỤC TRẶC TRUYỀN THÔNG

GIỮA NGƯỜI VỚI NGƯỜI, NHÓM VỚI NHÓM

*****

Chương này được viết sớm nhất trong tất cả quyển sách. Năm 1951, nó được trình bày vào lễ kỷ niệm “100 năm Hội thảo về Truyền thông” tại Đại học Northwestern University, dưới nhan đề: “Truyền Thông, những chướng ngại và khai thông”. Bài này được in lại do nhiều nhóm khác nhau, trong các tạp chí như: Harvard Business Review, và ETC, tạp chí của Hiệp Hội Ngữ Nghĩa học.

Mặc dù những minh họa dường như đã lỗi thời, nhưng tôi đã xếp nó vào đây vì nó nêu lên một điểm quan trọng liên quan đến những căng thẳng trong các nhóm quốc gia và quốc tế. Đề nghị cốt giải quyết căng thẳng giữa Nga và Mỹ lúc ấy có vẻ cực kỳ lý tưởng. Bây giờ thì nó được nhiều người chấp nhận như là tiếng nói của lương tri.

*****

Xem như kỳ lạ một người mà tất cả sự cố gắng nghề nghiệp dồn hết vào Tâm lý trị liệu lại chú tâm vào những vấn đề truyền thông. Có mối liên quan nào giữa việc cung cấp sự giúp đỡ trị liệu cho những cá nhân bị rối loạn tình cảm và sự quan tâm tới những cản trở trong việc truyền thông? Thực ra mối liên quan thật chặt chẽ. Tất cả công việc của tâm lý trị liệu là đương đầu với sự thất bại về truyền thông. Người bị rối loạn tình cảm, “người mắc bệnh tâm thần” là người gặp khó khăn, bởi vì trước tiên sự truyền thông bên trong anh đã hư, thứ đến, bởi vì kết quả dĩ nhiên của nó là sự thông truyền với người khác bị thương tổn. Nếu nói như vậy nghe như kỳ lạ với bạn, thì xin để tôi nói theo lối khác. Trong cá nhân “đau thần kinh”, có những phần của anh ta được gọi là vô thức, bị ức chế, hay bị từ khước không được ý thức, bị ngăn chặn, nên những phần ấy không còn bắt liên lạc được phần ý thức hay phần tự điều hành của chính anh. Bao lâu mà điều này còn đúng, thì còn những lệch lạc trong cách anh thông truyền với người khác, và như thế anh vừa khổ sở bên trong chính anh, vừa khổ sở trong những liên lạc với người khác. Công việc của Tâm lý Trị liệu là giúp người này thực hiện, qua liên hệ đặc biệt với nhà trị liệu, sự thông truyền tốt bên trong chính mình. Một khi điều này đã thực hiện được rồi thì anh ta có thể thông truyền tự do hơn và hữu hiệu hơn với người khác. Khi ấy ta có thể nói rằng tâm lý trị liệu là một sự truyền thông tốt, bên trong và giữa người với người. Chúng ta cũng có thể xoay ngược câu này lại thì nó vẫn sẽ đúng. Truyền thông tự do, truyền thông tốt bên trong và giữa  người với người thì luôn luôn có tính trị liệu.

Bởi thế với số vốn liếng kinh nghiệm về truyền thông trong hướng dẫn và tâm lý trị liệu tôi muốn trình bày hai ý tưởng. Tôi muốn xác định một  điều mà tôi tin là một trong những yếu tố lớn làm bế tắc và gây trở ngại cho sự truyền thông, sau đó sẽ trình bày cái điều mà kinh nghiệm sống của chúng tôi cho thấy là một phương cách rất quan trọng để cải thiện hay giúp cho sự truyền thông được dễ dàng.

Tôi xin đưa ra một giả thuyết để cứu xét là chướng ngại lớn nhất cho sự truyền thông giữa người với người chính là cái khuynh hướng tự nhiên của chúng ta ưa xét đoán, đánh giá, chấp thuận hay bác bỏ lời khẳng định của người khác, hay nhóm khác. Tôi xin được làm sáng tỏ điều tôi muốn nói bằng những ví dụ đơn giản. Hôm nay khi các bạn từ buổi nhóm họp này ra về, rất có thể sẽ được nghe nói “Tôi không ưa bài nói chuyện của ông ta”. Các bạn sẽ đáp ứng thế nào? Câu trả lời hầu như bao giờ cũng là sự đồng ý hay bác bỏ cái thái độ được biểu lộ. Hoặc giả các bạn sẽ đáp: “Tôi cũng vậy. Tôi thấy dở quá”, hoặc có thể đáp cách khác: “Ồ, tôi nghĩ là hay đấy chứ”. Nói khác đi, phản ứng đầu tiên của các bạn là đánh giá lời người ta vừa nói với mình, đánh giá theo quan điểm của các bạn theo cái khung nhận thức riêng của mình.

Hay lấy một ví dụ khác. Giả thử tôi nói một cách xác tín “Tôi nghĩ rằng những đảng viên cộng hòa những ngày gần đây xử sự có lý lắm”, phản ứng nào nảy sinh trong trí các bạn khi nghe nói thế? Hầu như chắc chắn sẽ là một phản ứng đánh giá. Các bạn sẽ thấy mình đồng ý, hoặc không đồng ý, hay sẽ có sự xét đoán nào đó về tôi “Ông ta phải là một người bảo thủ”, hoặc “Ông ta có vẻ vững vàng trong suy nghĩ”.

Ví dụ vừa kể trên  đem đến một yếu tố khác liên quan tới giả thuyết của tôi. Mặc dầu khuynh hướng đánh giá là chung trong hầu hết mọi cuộc trao đổi ngôn từ, nó càng lên tới mức độ cao hơn trong những hoàn cảnh mà tình cảm và xúc động dính dấp sâu xa. Như vậy là tình cảm càng mạnh mẽ thì càng ít có yếu tố chung để trao đổi. Sẽ chỉ có  hai ý tưởng, hai tình cảm, hai phán đoán bắt hụt nhau trong không gian tâm lý. Tôi dám chắc là các bạn nhận ra điểm đó bằng kinh nghiệm riêng của mình. Khi chính bản thân các bạn không dính dấp về phương diện tình cảm, và có nghe thấy một cuộc tranh luận nảy lửa, các bạn bỏ đi và nghĩ “Thực sự họ đâu có nói cùng một vấn đề”. Và đúng như vậy. Mỗi bên đều đang xét đoán, đang đánh giá theo nhận thức riêng của mình. Không có gì có thể gọi là truyền thông theo đúng nghĩa. Cái khuynh hướng phản ứng lại bất kỳ một lời khẳng định nào mang ý nghĩa tình cảm, bằng một phán đoán giá trị theo quan điểm riêng của chúng ta, tôi xin nhắc lại là một chướng ngại lớn cho sự truyền thông giữa người với người.

Nhưng có cách gì đó để giải bài toán này không, có cách gì để tránh chướng ngại này không? Tôi có cảm tưởng chúng tôi có những tiến bộ nức lòng nhằm mục tiêu đó và tôi xin trình bày thật đơn giản. Sự truyền thông thật sự xảy ra, và khuynh hướng đánh giá tránh được, nếu chúng ta lắng nghe với sự thấu hiểu. Thế nghĩa là gì? Có nghĩa là nhìn một ý tưởng, một thái độ được bộc lộ, theo quan điểm của người kia, là cảm thụ điều người ấy cảm, là thể hiện cái khung nhận thức (frame of reference) của người ấy, điều người ấy đang nói.

Nói gọn quá như vậy, điều này nghe như đơn giản tới mức vô lý, nhưng không phải vậy đâu. Đây là phương pháp chúng tôi thấy rất mực hiệu nghiệm trong lãnh vực tâm lý trị liệu. Đó là tác nhân hữu hiệu nhất mà chúng tôi biết được, để làm thay đổi cấu trúc căn bản về nhân cách của một cá nhân, và để cải thiện những liên hệ cùng những truyền thông của anh ta với người khác. Nếu tôi có thể nghe được điều anh ấy nói với tôi, nếu tôi có thể hiểu điều đó đối với anh là thế nào, nếu tôi có thể nhìn ra cái ý nghĩa riêng tư đối với anh, nếu tôi cảm được cái hương vị tình cảm của nó đối với anh, thì tôi giải tỏa được những tiềm năng về thay đổi trong anh ta. Nếu tôi thực sự hiểu anh ấy ghét cha mình, hoặc ghét trường đại học như thế nào – nếu tôi có thể bắt được cái cay đắng của sự sợ bị điên, hay sợ bom nguyên tử – thì sẽ giúp anh được lắm để thay đổi đi chính những thù ghét và lo sợ ấy, và để thiết lập những liên hệ thực tế và hài hòa với chính những người và những hoàn cảnh mà anh căm ghét và sợ hãi. Nhờ công cuộc nghiên cứu mà chúng tôi biết về sự thấu hiểu và thấu cảm này – hiểu biết, thông cảm với một người, chứ không phải về người ấy – đó là một phương pháp hữu hiệu đến nỗi nó có thể đem lại những thay đổi lớn trong nhân cách.

Vài người trong các bạn có thể cảm thấy mình đã chăm chú lắng nghe người khác và chưa bao giờ thấy những kết quả như vậy cả. Rất có thể là sự chú ý lắng nghe của các bạn không phải là thể loại mà tôi mô tả. May mắn thay tôi có thể đề nghị các bạn làm thử một cuộc thí nghiệm nho nhỏ để trắc nghiệm về phẩm chất của sự hiểu biết thông cảm của các bạn. Lần sau, khi các bạn tranh luận với bà xã, với một người bạn, hay một nhóm bạn hữu, xin tạm ngưng tranh luận trong chốc lát và để thử nghiệm, xin đưa ra điều luật này “Mỗi người chỉ được nói để biện hộ cho mình sau khi đã nhắc lại những ý kiến và những tình cảm của người nói trước mình, một cách trung thực, sao cho người này mãn nguyện”. Các bạn thấy ý nghĩa của việc này là gì chưa? Chỉ đơn giản có nghĩa là trước khi trình bày quan điểm riêng của mình, các bạn cần phải thực sự đạt tới cái khung nhận thức của người nói trước đó, thấu hiểu những ý tưởng và tình cảm của người kia tới mức tóm gọn chúng lại dùm người đó. Nghe như đơn giản, có phải không? Nhưng nếu các bạn làm thử, các bạn sẽ phát hiện đây là điều khó làm nhất mà các bạn đã từng thử. Dầu sao, một khi các bạn đã có khả năng nhìn thấy quan điểm của người khác, những lời phê phán của các bạn cũng sẽ được duyệt lại từ cội rễ. Các bạn sẽ thấy rằng sự xúc cảm được loại ra ngoài cuộc tranh luận, những khác biệt giảm bớt, và những sự khác biệt còn lại là thuộc loại hữu lý và có thể hiểu được.

Các bạn có thể tưởng tượng được phương pháp này sẽ có ý nghĩa gì, nếu nó được sử dụng vào những lãnh vực lớn lao hơn? Điều gì sẽ xảy ra trong một cuộc tranh chấp giữa công nhân và ban lãnh đạo nếu sự gặp mặt được điều khiển theo cách này là: phía công nhân, không cần đồng ý, nhưng có thể nói lại xác đáng quan điểm của ban lãnh đạo, theo cách mà lãnh đạo chấp nhận được; và lãnh đạo, dù không chấp nhận lập trường của công nhân, nhưng có thể xác định lập trường đó, cách mà công nhân nhìn nhận là chính xác. Thế có nghĩa là sự truyền thông thực sự đã được thiết lập, và người ta có thế bảo đảm không sai rằng một giải pháp hữu lý nào đó sắp được đạt tới.

Nếu phương pháp này là một con đường hữu hiệu dẫn đến sự truyền thông và những liên hệ tốt, và tôi tin chắc là các bạn sẽ đồng ý nếu các bạn làm cuộc thử nghiệm tôi đã nói, tại sao nó không được thử và sử dụng rộng rãi hơn? Tôi sẽ cố kể ra những nỗi khó khăn khiến nó không được dùng đến.

Trước hết nó đòi hỏi phải có can đảm, một đức tính không phổ quát lắm. Tôi mang ơn Tiến sĩ S.I. Hayakawa, nhà ngữ nghĩa học, nhờ ông chỉ mới thấy là hành nghề tâm lý trị liệu theo cung cách này là một sự liều lĩnh thực sự, và đòi hỏi phải can đảm. Nếu các bạn thực sự thấu hiểu một người khác theo cách này, nếu các bạn muốn đi vào thế giới riêng tư của người ấy và bắt được cái nhìn đời của người ấy, mà không đưa ra một lời phán đoán đánh giá nào, thì các bạn sẽ có nguy cơ là chính mình bị thay đổi. Các bạn có thể nhìn sự việc theo cách của người ấy, các bạn có thể thấy mình bị ảnh hưởng trong thái độ hay trong nhân cách của mình. Cái nguy cơ bị thay đổi này là một trong những viễn tượng hãi hùng nhất, phần lớn chúng ta không chịu nỗi. Nếu tôi đi vào, một cách thật đầy đủ, với tất cả khả năng của mình, vào thế giới riêng tư của một người loạn tâm thần, thì có nguy cơ là tôi sẽ bị lạc mất trong thế giới đó không? Phần lớn chúng ta đều sợ, không dám liều lĩnh như vậy. Số đông chúng ta không thể lắng nghe. Chúng ta thấy mình bị hối thúc phải đánh giá, bởi vì việc lắng nghe xem chừng nguy hiểm quá. Như vậy đòi hỏi đầu tiên là can đảm, mà can đảm thì chúng ta không phải lúc nào cũng có.

Nhưng còn một trở lực thứ nhì nữa. Đúng vào lúc mà những xúc động mạnh mẽ nhất, là lúc khó thực hiện cái khung nhận thức của ngừoi khác hay nhóm khác nhất. Nhưng chính vào lúc đó, thái độ ấy rất cần, nếu muốn có sự thông truyền. Chúng tôi không thấy điều này là một trở lực không thể vượt qua được, theo kinh nghiệm tâm lý trị liệu của chúng tôi. Một phe thứ ba, có khả năng đặt sang một bên những tình cảm và những đánh giá của chính mình, có thể giúp nhiều, bằng cách lắng nghe với sự hiểu biết thông cảm với mỗi người hay mỗi nhóm, và làm sáng tỏ những quan điểm và thái độ mà mỗi bên bảo vệ. Chúng tôi thấy điều này rất hữu hiệu trong những nhóm nhỏ nơi đó có những thái độ mâu thuẫn hoặc xung khắc. Khi những  phe của một cuộc tranh chấp, nhận ra là họ được hiểu biết thông cảm, rằng có người nào đó nhìn thấy hoàn cảnh ra sao đối với họ, thì những lời khẳng định bớt bị cường điệu hóa và bớt tính đề phòng, và không cần phải giữ thái độ “Tao đúng 100% và mày sai 100% nữa.” Ảnh hưởng của chất xúc tác hiểu biết trong nhóm, cho phép những thành viên khác tiến gần, gần hơn, tới sự thật khách quan trong mối liên hệ. Bằng cách này sự truyền thông hỗ tương được thiết lập và một thứ đồng ý nào đó có thể có được. Như vậy chúng ta có thể nói rằng mặc dù cường độ của xúc động tăng gia sự khó khăn trong thông cảm với đối thủ, kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy rằng hướng dẫn viên hoặc điều trị viên có  sức xúc tác, hiểu biết và vô tư, có thể vượt qua chướng ngại này trong một nhóm nhỏ.

Tuy nhiên, câu sau này gợi lên một trở lực khác trong việc sử dụng phương pháp mà tôi đã mô tả. Cho tới nay tất cả kinh nghiệm của chúng tôi là với những nhóm nhỏ, mặt – giáp – mặt – những nhóm nhỏ phơi bày những căng thẳng kỹ nghệ, căng thẳng tôn giáo, căng thẳng màu da, và những nhóm trị liệu trong đó hiện diện những căng thẳng riêng tư. Trong những nhóm nhỏ này, kinh nghiệm của chúng tôi được xác định bởi một số nghiên cứu, chứng tỏ rằng phương pháp lắng nghe và thấu hiểu đưa tới sự cải thiện truyền thông, sự chấp nhận dễ dàng hơn những người khác và bởi những người khác, tới những thái độ tích cực hơn trong bản chất, để giải quyết vấn đề. Có sự giảm sút về đề phòng, về những lời khẳng định quá đáng, về thái độ ưa đánh giá và phê bình. Nhưng những phát hiện này xảy ra trong những nhóm nhỏ. Ta có thể làm gì để thực hiện sự hiểu biết giữa những nhóm lớn hơn, xa cách về địa lý? Hay giữa những nhóm mặt – đối – mặt không nói cho chính mình, nhưng chỉ là những đại diện cho những người khác, như những người được ủy nhiệm tại Liên Hiệp Quốc? Thực tình chúng tôi không có những giải pháp cho những câu hỏi này. Tôi tin là hoàn cảnh hiện nay có thể được trình bày như thế này. Với tư cách là các nhà khoa học xã hội chúng tôi có một cách giải quyết vấn đề bế tắc trong truyền thông, nhờ kinh nghiệm trong phòng thí nghiệm. Nhưng để xác định giá trị của giải pháp này, và đem áp dụng nó cho những vấn đề trọng đại về bế tắc trong truyền thông giữa những giai cấp, những nhóm và những dân tộc, phải có thêm những ngân khoản, nhiều cuộc nghiên cứu, và sự suy nghĩ đầy sáng tạo trên một bình diện cao hơn.

Ngay cả với số kiến thức hạn chế hiện nay, chúng ta cũng thấy một số bước có thể đi được, ngay cả bên trong những nhóm lớn, là gia tăng số lượng lắng nghe với, và giảm bớt số lượng đánh giá về. Để trí tưởng tượng hoạt động một lúc, chúng ta hãy giả thử là có một nhóm quốc tế được huấn luyện về trị liệu đến với các lãnh tụ Liên Xô và nói “Chúng tôi muốn có một sự hiểu biết thấu đáo về những quan điểm của các ngài, và còn quan trọng hơn nữa, về những thái độ và tình cảm của các ngài đối với Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ tóm lược và tái tóm lược những quan điểm và tình cảm này nếu cần, cho tới khi các ngài đồng ý là sự mô tả của chúng tôi thể hiện tình thế đúng ý các ngài”. Rồi giả thử họ cũng làm việc ấy với những nhà lãnh đạo trong nước chúng ta. Và sau đó nếu họ phổ biến thật rộng rãi quan điểm này, với những tình cảm mô tả thật rõ, chứ không theo lối réo tên xách mé, thì kết quả có thể rất lớn đấy chứ? Tôi không dám bảo đảm loại hiểu biết đó dễ xảy đến hơn. Chúng ta có thể hiểu biết những tình cảm của một người ghét chúng ta, một cách dễ dàng, khi những thái độ của người ấy được mô tả cho chúng ta một cách chính xác bởi một người thứ ba, hơn là khi người ấy vung nắm tay về hướng chúng ta.

Nhưng ngay khi mô tả bước đầu đã nêu lên một trở ngại cho giải pháp hiểu biết. Nền văn minh của chúng ta chưa có đủ niềm tin nơi các khoa học xã hội để có thể áp dụng những điều tìm được của họ. Đối với khoa học vật lý thì ngược lại. Trong chiến tranh khi một giải đáp được tìm ra nơi phòng thí nghiệm về vấn đề cao su tổng hợp, bao nhiêu triệu đô la và một số lượng to lớn tài năng đã được chi tiêu cho vấn đề sử dụng thành quả này. Nếu đã chế tạo được vài milligam cao su tổng hợp thì cũng có thể chế tạo bao nhiêu ngàn tấn, và họ đã thành công. Nhưng trong lãnh vực xã hội, nếu đã tìm ra cách làm dễ dàng sự hiểu biết lẫn nhau và sự truyền thông trong những nhóm nhỏ, thì không có gì bảo đảm là nó sẽ được sử dụng. Có thể phải đợi đến thế hệ sau, hay hơn nữa, trước khi tiền và những khối óc được bỏ ra để khai thác khám phá này.

Để kết thúc, tôi muốn đúc kết cái giải pháp cỡ nhỏ này cho vấn đề chướng ngại trong truyền thông, và nêu lên một vài đặc tính của nó.

Tôi đã nói rằng công cuộc nghiên cứu và kinh nghiệm của chúng tôi cho đến nay, cho thấy những trục trặc trong vấn đề truyền thông, và cái khuynh hướng đánh giá là trở ngại lớn đối với truyền thông, có thể tránh được. Giải pháp được áp dụng bằng cách tạo một hoàn cảnh trong đó mỗi bên của các phe khác nhau đi tới chỗ hiểu bên kia theo quan điểm bên kia. Điều này đã đạt được trong thực tế, ngay cả khi mà những tình cảm bốc cao, nhờ ảnh hưởng của một người muốn hiểu mỗi quan điểm một cách triệt để, và người ấy thực hiện vai trò xúc tác, để thôi thúc sự hiểu nhau hơn.

Phương pháp này có những đặc tính quan trọng. Nó có thể được một phe bắt đầu trước,  khỏi phải đợi phe kia sẵn sàng. Có thể do một người thứ ba vô tư khởi sự, miễn là người đó có được sự cộng tác tối thiểu của một trong các phe.

Phương pháp này có thể đương đầu với những sự thiếu thành thật, những phòng vệ quá đáng, những lời nói láo, những “bề mặt man trá”, hầu như là đặc tính của bất kỳ sự thất bại nào trong truyền thông. Những bóp méo phòng vệ này sẽ rớt xuống với tốc độ mau đến kinh ngạc khi người ta nhìn thấy rằng mục tiêu duy nhất là để hiểu biết chứ không phải để phán đoán.

Phương pháp này chắc chắn và mau chóng dẫn tới phát hiện sự thực, tới lượng giá đúng mức về những chướng ngại khách quan trong sự truyền thông. Khi một bên buông lơi phần nào sự phòng vệ thì bên kia cũng sẽ buông lỏng bớt, và hai bên tiến đến gần sự thật hơn.

Phương pháp này dần dần đưa đến truyền thông hỗ tương. Sự truyền thông ấy có khuynh hướng tiến về phía giải quyết vấn đề hơn là tấn công một người hay một nhóm. Nó dẫn đưa tới hoàn cảnh trong đó tôi thấy vấn đề đối với anh là như thế nào, và anh cũng thấy vấn đề đối với tôi là như thế nào. Như vậy, vấn đề đã được nhận định chính xác và sát thực tế, hầu như chắc chắn nó sẽ nhượng bộ trước sự dẫn giải của lý trí, và nếu một phần không giải quyết được, thì cũng được an tâm chấp nhận là nó như thế.

Cuối cùng, điều này xem như một giải đáp nơi phòng thí nghiệm cho sự trục trặc về truyền thông trong những nhóm nhỏ. Liệu chúng ta có chấp nhận được lời giải đáp trên bình diện nhỏ này, đem nghiên cứu kỹ lại, tinh luyện thêm, và phát triển nó để ứng dụng cho những thất bại gần như bi đát về truyền thông, những thất bại đang đe dọa ngay cả sự sống còn của thế giới hiện đại của chúng ta không? Đối với tôi đây là một việc có thể làm và một thách thức mà chúng ta nên thám hiểm.

(hết chương 12)

– – – – –

MỤC LỤC:

Chg 0. Lời giới thiệu

Chg 1:  “TÔI LÀ AI?” Sự phát triển tư tưởng nghề nghiệp và triết lý cá nhân của tôi

PHẦN I – L‎ý thuyết về tâm lý trị liệu và sự trưởng thành con người

Chg 2. Giả thuyết về các việc làm giúp cho con người trưởng thành

Chg 3. Những đặc tính của liên hệ trị liệu

Chg 4. Chúng ta biết gì về tâm trị liệu dưới khía cạnh khách quan và chủ quan

Chg 5. vài chiểu hướng rõ rệt trong trị liệu

Chg 6. Thành nhân có nghĩa là gì?

Chg 7. “Sống con người thật của mình”một quan điểm của nhà trị liệu về mục tiêu cá nhân

Chg 8. Quan điềm của một nhà trị liệu về đời sống đẹp: Con người sống tràn đầy

PHẦN II – Ứng dụng vào những lãnh vực khác nhau của đời sống

Chg 9. Dạy và học – Những suy tư riêng

Chg 10. Sự học hỏi thực sự trong trị liệu và trong giáo dục

Chg 11. Những liên quan của thân chủ trọng tâm trị liệu với đời sống gia đình

Chg 12. Đương đầu với những trục trặc trong truyền thông giữa người-người và nhóm-nhóm

Chg 13. Thử phát biểu một định luật khái quát về sự tương giao giữa người với người

Chg 14. Tiến tới một lý thuyết về sáng tạo

– – – – –

Read Full Post »