Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘01. “Tôi là ai?”’ Category

Chương 1:  “TÔI LÀ AI?”

Sự phát triển tư tưởng nghề nghiệp

và triết lý cá nhân của tôi

*****

Chương này đúc kết hai buổi diễn thuyết về tôi.

Cách đây năm năm tôi được mời đến nói chuyện trước một lớp trung cấp tại Đại học Brandeis về đề tài “Tôi là ai”, thay vì nói về khoa tâm lý trị liệu của tôi. Làm sao tôi có những tư tưởng và trở thành con người hiện nay của tôi? Tôi nhận thấy lời mời trên là một cơ duyên rất nhiều ý nghĩa, do đó tôi cố gắng đáp lời yêu cầu đó.

Năm ngoái, tổ chức diễn đàn sinh viên tại Đại học Wisconsin cũng đạt lời mời tương tự. Họ yêu cầu tôi nói về tôi trong chương trình “Những buổi diễn thuyết cuối cùng” của họ, một chương trình theo đó vị giáo sư diễn giảng bài cuối của ông trong đó có phần nói hoàn toàn về cá nhân ông. Trong dịp nói chuyện lần này, tôi đã biểu lộ tôi một cách đầy đủ hơn lần trước về những điều học hỏi của riêng tôi hoặc về những chủ đề triết lý mà tôi cho là có ý nghĩa đối với tôi.

Trong chương này, tôi đã đúc kết cả hai buổi diễn thuyết trên, và giữ lại tính cách thân mật của lần trình bày đầu tiên.

Hai buổi diễn thuyết trên đã giúp tôi nhận thức được rằng thính giả khao khát muốn biết thế nào về diễn thuyết đang nói với họ hoặc dạy họ. Vì thế, tôi quyết định mở đầu quyến sách của tôi với chương này, hy vọng nó sẽ nói lên một ít điều về tôi – và do đó – cũng tạo thêm bối cảnh và ý nghĩa cho những chương kế tiếp.

*****

Chủ đề mà nhóm thính giả trên muốn tôi trình bày là đề tài “Đây là tôi”. Trước lời mời này, tôi cảm thấy nhiều phản ứng khác nhau, nhưng có một điều mà tôi muốn nói ra là tôi cảm thấy vinh hạnh và được đề cao khi thấy có người muốn biết tôi là ai. Tôi có thể quả quyết với bạn rằng đó là một lời mời rất độc đáo và tôi sẽ cố gắng đáp lại với tất cả lòng chân thực của tôi.

Vậy, tôi là ai? Tôi là một tâm lý gia đã quan tâm đặc biệt về khoa tâm lý trị liệu từ nhiều năm qua. Thế có nghĩa là gì? Tôi không có ý định làm cho bạn phải nhàm chán vì phải nghe tôi kể dài dòng về công việc của tôi. Tôi xin trích dẫn một vài đoạn trong lời tựa cuốn sách “Thân chủ trong tâm lý trị liệu” của tôi để nói lên một cách chủ quan ý nghĩa của công việc đó. Trong cuốn sách trên, để độc giả có một vài cảm nghĩ về chủ đề của nó, tôi đã viết thế này: “Cuốn sách này nói về vấn đề gì? Tôi có thể trả lời rằng đó là một cuốn sách nói về một kinh nghiệm sống, về những đau khổ và hy vọng, về sự âu lo và niềm vui được thể hiện nơi phòng hướng dẫn của nhà trị liệu. Nó cũng nói về sự thuần nhất trong mối tương giao mà mỗi nhà trị liệu thiết lập với thân chủ của mình và đồng thời cũng đề cập đến những đặc tính chung mà chúng tôi đã tìm được qua những tương giao đó. Cuốn sách này cũng đề cập đến những kinh nghiệm rất cá biệt của mỗi chúng ta. Về một thân chủ trong phòng của tôi, đang ngồi bên góc bàn nỗi lực phấn đấu để được là mình, nhưng cũng rất kinh hoàng sợ được là mình. Thân chủ đó đang cố gắng đúng với kinh nghiệm hiện tại của mình nhưng cũng tỏ ra rất run sợ trước viễn ảnh đó. Cuốn sách này nói về tôi, khi tôi đang ngồi ở đây với thân chủ kia, đối diện với y, và cùng tham dự vào tiến trình tranh đấu của y một cách sâu xa và nhạy cảm. Nói cũng phản ảnh tôi khi tôi buồn phiền về sự sai lầm của mình trong việc tìm hiểu thân chủ và những khi tôi không thấy đúng được một khía cạnh nào đó trong cuộc sống của y. Những lần tôi thất bại như vậy thật cụ thể tựa như có người ném một vài vật gì vào màng lưới nhện, đó là tiến trình đang trưởng thành của thân chủ tôi. Nhưng cuốn sách này cũng nói lên sự vui mừng của tôi khi tôi được đặc ân khai sinh cho một nhân cách – chứng kiến với thán phục sự xuất hiện của một con người – một cuộc khai sinh mà tôi đã góp phần giúp đỡ quan trọng. Nó cũng đề cập đến cả thân chủ và tôi khi chúng tôi cùng ngạc nhiên quan sát những năng lực dường như ăn rễ sâu trong vũ trụ nói chung. Cuốn sách này, tóm lại, nói về cuộc sống – một cuộc sống tự phơi bày linh động qua tiến trình trị liệu, cuộc sống với tất cả sức mạnh mù quáng và khả năng tàn phá kinh khủng của nó, nhưng cũng có sức bật mạnh mẽ hướng tới sự tăng trưởng, nếu có cơ hội thuận tiện.

Tôi hy vọng đoạn trên đem lại cho bạn một vài hình ảnh về công việc tôi làm và cảm nghĩ của tôi về công việc ấy. Tôi nghĩ bạn có thể thắc mắc tôi đã dấn thân vào công việc này như thế nào, cũng như tìm hiểu một số những quyết định và chọn lựa của tôi khi làm công việc đó. Vậy để tôi trình bày một vài điểm tâm lý trong tiểu sử của tôi – mà theo thiển ý – dường như rất có liên quan đến đời sống nghề nghiệp của tôi.

NHỮNG NĂM ĐẦU

Tôi sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống đạo đức tôn giáo rất chặt chẽ, lấy sự làm việc cần cù là một đức tính được tôn thờ. Tôi là con thứ tư trong số sáu người con trong gia đình. Cha mẹ tôi rất quan tâm đến chúng tôi về mọi phương diện, kể cả cách cư xử của chúng tôi cũng được ông bà kiểm soát chặt chẽ. Gia đình tôi khác hẳn mọi gia đình khác: chúng tôi không uống rượu, không khiêu vũ, không đánh bài hoặc coi hát, ít giao dịch với chung quanh, chỉ dành thời giờ để làm việc thực nhiều. Đó là quan niệm sống của cha mẹ tôi và tôi cũng chấp nhận như vậy. Riêng tôi, tôi cũng có lúc phải khó khăn thuyết phục các con tôi tin rằng nước ngọt cũng có chút hương vị tội lỗi nhẹ nhàng, và bây giờ tôi còn nhớ cái cảm tưởng hư hỏng của tôi khi lần đầu tiên tôi uống chai nước pop. Chúng tôi đã sống vui vẻ trong gia đình, nhưng không hòa đồng với nhau. Vì thế tôi đã là một cậu bé khá cô đơn chỉ biết mài miệt đọc sách và suốt thời kỳ trung học chỉ hẹn hò có hai lần với bạn gái.

Khi tôi lên mười hai tuổi, cha mẹ tôi mua một nông trại và dọn nhà đến đó ở, vì hai lý do sau đây: Trước hết, cha tôi, sau khi đã trở thành một doanh nhân giàu có, muốn có một trang trại để giải trí. Nhưng quan trọng hơn nữa, theo tôi nghĩ, thì dường như cha mẹ tôi nghĩ rằng một gia đình có con ngày một khôn lớn như tôi, phải tránh xa những “cám dỗ” của đời sống thành thị.

Sống ở đó, tôi phát triển được hai lợi thú mà có lẽ đã có một ảnh hưởng thực sự đến công việc sau này của tôi. Tôi đã say mê những con mối thường bay về đêm và đã trở thành một chuyên viên về các giống mối đẹp như Luna, Polyphemus, Cecropia và các giống khác sống ở khúc gỗ. Tôi đã chăm chú nuôi những con mối mà tôi bắt được – và qua công việc chăm nuôi tỉ mỉ này – tôi đã nhận thức được một ít niềm vui và thất vọng của một khoa học gia khi cố gắng quan sát thiên nhiên.

Cha tôi thì cương quyết khai thác nông trại mới của ông với phương pháp khoa học, vì thế ông đã mua nhiều sách nói về khoa học canh nông. Ông khuyến khích mấy anh em chúng tôi phải tự làm lấy một công việc gì xét ra có lợi ích, vì thế các anh tôi và tôi đã nuôi được một bầy gà con, cả cừu, heo và bò nữa. Nhờ chăn nuôi như vậy, tôi đã trở thành một sinh viên về khoa học nông nghiệp, nhưng mãi đến mấy năm gần đây tôi mới nhận thức được một ý niệm căn bản về khoa học mà tôi đã thâu thập được qua công việc trên. Trước đây không ai nói cho tôi biết rằng cuốn sách “Thực phẩm và Chăn nuôi” của Morison không phải dành cho một thiếu niên mười bốn tuổi đọc, vì thế tôi đã vùi đầu vào hàng trăm trang sách trên để tìm hiểu cách làm thí nghiệm, cách kiểm soát từng đàn súc vật, cũng như những điều kiện và phương pháp giúp sản xuất sữa và thịt. Tôi đã học được cách thí nghiệm một giả thiết khó như thế nào. Tôi cũng đã thâu thập được một kiến thức và một sự tôn trọng đối với những phương pháp của khoa học áp dụng trong lĩnh vực thực hành.

VIỆC HỌC HÀNH CỦA TÔI Ở ĐẠI HỌC

Tôi bắt đầu theo học ngành canh nông tại Đại học Wisconsin. Một trong những điều mà bây giờ tôi còn nhớ rõ nhất, đó là lời tuyên bố hùng hồn của một giáo sư nông khoa về vấn đề học hỏi và sử dụng những sự kiện. Ông đã đặc biệt nhấn mạnh tính chất vô dụng của một kiến thức thuần túy sách vở và đã thẳng thắn tuyên bố: “Không nên là một kho đạn, mà phải là khẩu súng”.

Trong hai năm đầu của tôi ở Đại học, mục tiêu nghề nghiệp của tôi đã thay đổi, từ ước muốn được là một khoa học gia về nông nghiệp thành ước muốn đi giảng đạo. Sự thay đổi này bắt nguồn từ những buổi đi nghe diễn thuyết về tôn giáo dành cho sinh viên. Rồi tôi quay sang học lịch sử, bỏ nông khoa, vì tin rằng môn học này sẽ chuẩn bị tôi một cách tốt đẹp hơn.

Trong năm đầu, tôi được tuyển chọn trong số mười hai sinh viên Mỹ sang Trung Hoa tham dự Hội nghị của Liên đoàn Sinh viên Kitô giáo Thế giới. Đây là một kinh nghiệm quan trọng nhất đối với tôi. Năm đó là năm 1922, tức là bốn năm sau thế chiến thứ nhất. Tôi nhận thấy người Pháp và người Đức vẫn còn hiềm khích nhau một cách trầm trọng mặc dù giữa các nhân với nhau, họ có vẻ rất thân thiện. Hoàn cảnh đã đưa tôi đến chỗ xác quyết rằng những người thành thật và ngay thẳng có thể tin tưởng vào những chủ thuyết tôn giáo dị biệt. Đây là lần đầu tiên, tôi đã tự giải phóng mình khỏi những tư tưởng tôn giáo của cha mẹ tôi, nghĩa là tôi nhận thấy tôi. Thái độ độc lập về tư tưởng này của tôi đã tạo nên sự buồn phiền không nhỏ và sự căng thẳng trong mối tương giao giữa tôi và cha mẹ tôi. Nhưng bây giờ khi nhìn lại, tôi nhận thấy chính nhờ giai đoạn này mà tôi đã trở thành một người độc lập. Dĩ nhiên, trong khoảng thời gian trên, tôi đã cảm nhận được nhiều phản kháng và chống đối trong thái độ của tôi, nhưng biến cố đưa đến “rạn nứt” quan trọng đã xảy ra trong thời gian sáu tháng tôi sang thăm Trung Hoa, và từ sau biến cố này, tôi thấy tôi, đã bị cắt đứt khỏi mọi ảnh hưởng của gia đình.

Ở đây tôi đang thuật lại những yếu tố đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghề nghiệp của tôi hơn là nói về sự tăng trưởng nhân cách của tôi, nhưng tôi cũng xin được vắn tắt đề cập đến một yếu tố rất quan trọng trong đời sống của tôi. Đó là sự kiện tôi yêu một cô gái rất đáng mến mà tôi đã quen biết từ nhiều năm trước. Sự kiện này xảy ra vào lúc tôi du hành sang thăm Trung Hoa. Mặc dù đôi bên cha mẹ bằng lòng với thái độ lưỡng lự, chúng tôi đã thành hôn với nhau sau khi đã tốt nghiệp Đại học để cùng lên học Cao học. Từ đó đến nay, tuy tôi không thể hoàn toàn khách quan nhận định, nhưng tình yêu bền bỉ và sự hợp tác tích cực của nàng đã là một yếu tố quan trọng làm cho đời tôi luôn phong phú. Tôi đã quyết định theo học khoa Thần học tại Chủng viện Union Theological Seminary, tức là trường có khuynh hướng tự do nhất ở Hoa Kỳ thời đó (1924) để chuẩn bị cho hoạt động tôn giáo sau này của tôi. Tôi không bao giờ hối tiếc hai năm học tập ở đó. Tôi đã có dịp tiếp xúc với một số học giả và giáo sư tăm tiếng, đặc biệt là Tiến sĩ A.C. Mc Giffert, là người rất tin tưởng vào tự do tìm tòi, dù cho phải đi tới đâu để tìm chân lý.

Sở dĩ tôi biết rõ về các trường Đại học với tất cả những luật lệ khe khắt của nó như hiện nay là vì tôi đã có được một kinh nghiệm rất có ý nghĩa tại Chủng viện Union. Khi theo học ở đó, một nhóm sinh viên chúng tôi cảm thấy rằng người ta đang nhét vào đầu chúng tôi những ý tưởng, trong khi ước vọng chính của chúng tôi là được nói lên những thắc mắc và nghi ngờ của mình và tìm cách khai thông những khắc khoải đó. Vì thế, chúng tôi đã yêu cầu Ban Giám Đốc nhà trường cho phép chúng tôi được tổ chức một khóa Hội thảo đế lấy tín chỉ. Khóa Hội thảo này không cần có giảng viên, và chương trình thảo luận bao gồm những thắc mắc của chúng tôi. Yêu sách của chúng tôi được chấp thuận với một giới hạn duy nhất là sẽ có một giảng viên trẻ tuổi đến dự thính hội thảo và chỉ tham gia thảo luận khi nào chúng tôi yêu cầu. Quả thật, khóa Hội thảo này đã làm chúng tôi thỏa mãn sâu xa và đã làm sáng tỏ mọi vấn đề. Bây giờ tôi mới nhận thấy rằng sự kiện này đã đưa tôi tiến xa hơn nữa trên đường phát triển một thứ triết lý sống của riêng tôi. Trong cuộc Hội thảo trên, đa số hội thảo viên – trong đó có tôi- đã nêu ra những thắc mắc phản ánh đường lối suy tư của họ ở ngoài phạm vi tôn giáo. Tôi nhận thấy những vấn đề như ý nghĩa cuộc đời và khả năng cải thiện tốt đẹp đời sống cho cá nhân có lẽ thực sự là mối quan tâm cho tôi, nhưng tôi không thể hoạt động trong một lĩnh vực mà tôi cảm thấy bó buộc phải tin theo một chủ thuyết tôn giáo đặc biệt nào. Niềm tin của tôi đã thay đổi rất nhiều, và rất có thể còn tiếp tục thay đổi. Đối với tôi, nếu phải tuyên xưng một lô niềm tin để cốt giữ vững nghề nghiệp của mình thì thật quả là một điều đáng sợ. Tôi muốn tìm một lãnh vực trong đó tôi có thể chắc chắn rằng tự do tin tưởng của tôi sẽ không bị giới hạn.

TRỞ THÀNH MỘT TÂM LÝ GIA

Những lãnh vực đó là lĩnh vực nào? Khi theo học tại Chủng viện Union, tôi đã bị cuốn bởi những bài giảng thuyết về tâm lý và tâm trị liệu, là những môn học đang bắt đầu phát triển vào thời bấy giờ. Các ông Goodwin Watson, Harrioson Elliott và Marian Kenworthy là những người đã đóng góp nhiều cho môn học trên. Tôi cũng theo thêm nhiều khóa nữa tại trường Sư phạm thuộc Đại học Columbia. Tôi học về Triết lý Giáo dục với giáo sư William H. Kilpatrick và bắt đầu thực hành trị liệu cho trẻ em dưới sự hướng dẫn của giáo sư Leta Hollingworth. Lúc ấy tôi lại thấy công việc hướng dẫn trẻ em lôi cuốn tôi, nên sau đó tôi đã chuyển sang ngành hướng dẫn trẻ. Từ đây, tôi bắt đầu coi mình là một tâm lý gia trị liệu. Tôi chọn công việc này với một ý thức khá lu mờ, thật ra bị lôi cuốn bởi những công việc làm.

Thời gian ở trường Sư phạm (Teacher’s College) tôi đã xin được một học bổng nội trú tại Viện Hướng dẫn trẻ, một cơ sở mới thiết lập do Quỹ Thịnh Vượng Chung bảo trợ. Tôi vẫn thường ghi nhớ mãi năm đầu tiên tôi sống trong Viện này. Lúc ấy cơ sở còn ở trong tình trạng luộm thuộm, ai muốn làm gì mặc ý. Tôi nhận thấy tinh thần hiếu động của Freud thể hiện nơi Ban Giám đốc nhà trường – gồm các ông David Levy và Lowson Lowrey – đã xung đột trầm trọng với quan điểm hoàn toàn khách quan và khoa học, thể hiện mạnh mẽ ở trường Sư phạm. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy quả thật tôi đã học hỏi một kinh nghiệm quý giá nhờ giải quyết sự xung đột đó trong tôi. Khi tôi rời khỏi Viện trên, tôi đang dấn thân hoạt động trong hai lãnh vực hoàn toàn khác biệt nhau và cả hai lãnh vực này sẽ không bao giờ hội tụ.

Vào cuối thời gian nội trú trên, tôi may mắn kiếm được một việc làm để giúp đỡ gia đình tôi mặc dù lúc đó tôi chưa hoàn tất văn bằng Tiến sĩ. Sự kiện này thật đáng ghi nhớ đối với tôi, vì ở thời kỳ đó công việc làm không phải dễ kiếm. Tôi được mướn như một tâm lý gia làm việc cho Ban Nghiên cứu Trẻ em thuộc Cơ quan Ngăn ngừa sự Độc ác đối với Trẻ em của Đại học Rochester ở Nữu Ước. Tất cả có ba tâm lý gia làm việc ở đây và tôi được trả lương mỗi năm 2.900 Mỹ kim.

Bây giờ nghĩ lại công việc đã làm, tôi cảm thấy vui thích mặc dù hơi kinh ngạc. Tôi vui sướng vì đã có dịp làm công việc tôi mong muốn, mặc dù lương bổng không cao lắm. Lại nữa, cũng vì công việc trên mà tôi ít được tiếp xúc nghề nghiệp với ai. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu tôi có cơ hội làm được việc tôi lưu tâm nhất, thì mọi việc sẽ diễn ra tốt đẹp.

NHỮNG NĂM Ở ĐẠI HỌC ROCHESTER

Thời gian muời hai năm ở Đại học Rochester là khoảng thời gian vô cùng quý giá. Ít nhất là trong tám năm đầu của mười hai năm này, tôi đã hoàn toàn để hết tâm trí vào công việc thực hành tâm lý, như dò tìm triệu chứng và hoạch định chương trình trị liệu cho những trẻ em hư hỏng và xấu số, do các tòa án và cơ quan gởi đến cho chúng tôi. Đây là một thời gian tương đối bị cô lập vì nghề nghiệp, bởi lẽ mối quan tâm duy nhất của tôi lúc đó là làm sao trị liệu hữu hiệu hơn cho các thân chủ của chúng tôi. Chúng tôi đã phải sống với những thất bại cũng như những thành công để được học hỏi thêm. Chúng tôi chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất cho bất cứ phương pháp nào áp dụng đối với trẻ em trên và phụ huynh của chúng, đó là tiêu chuẩn hỏi xem công việc mỗi ngày, tôi bắt đầu công thức hóa những quan điểm của riêng tôi.

Trong thời gian được huấn luyện, tôi đã say mê đọc những tác phẩm của Tiến sĩ William Healy. Theo ông, nạn phạm pháp thường phát sinh do những xung đột về dục tính, nghĩa là khi xung đột này được giải tỏa thì nạn phạm pháp cũng chấm dứt. Trong một hai năm đầu làm việc ở Đại học Rochester, tôi đã có dịp săn sóc cho một thanh niên mắc chứng thích đốt lửa một cách cuồng nhiệt. Phỏng vấn anh ta hết ngày này sang ngày khác trong phòng giam, tôi đã dần dần khám phá ra ước muốn đốt lửa của anh có liên quan đến ước muốn thủ dâm của anh. Thế là vấn đề được giải quyết! Nhưng nếu bị cấm đoán, anh lại mắc chứng bệnh trên.

Bây giờ tôi còn nhớ sự khúc mắc mà tôi cảm thấy trong thời gian đó. Tiến sĩ Healy có thể sai lầm, và có lẽ tôi đã học được một cái gì mà ông không biết. Sự kiện vừa nên trên cũng đã kích động tôi nghĩ rằng có thể có những lỗi lầm trong đường lối giảng dạy độc quyền, mặc dù chúng tôi vẫn còn có thể khám phá được một kiến thức mới.

Ngay sau khi đến làm việc tại Rochester, tôi đã hướng dẫn một nhóm thảo luận về vấn đề phỏng vấn. Tôi đã khám phá một tài liệu đã xuất bản về một cuộc phỏng vấn với một phụ huynh. Bản phỏng vấn còn đủ từng chữ một, trong đó người phỏng vấn đã tỏ ra tế nhị, sâu sắc và khéo léo điều khiển cuộc phỏng vấn đến ngay trọng tâm của vấn đề một cách nhanh chóng. Tôi sung sướng được dùng bản phỏng vấn này như một thí dụ tốt đẹp về kỹ thuật phỏng vấn hay.

Ít năm sau đó, tôi có dịp được làm một cuộc phỏng vấn tương tự và tôi đã nhớ ngay đến tài liệu quý báu trên. Tôi vội đọc lại bài phỏng vấn đó. Đọc rồi tôi thấy kinh hoàng, vì dường như chuyên viên phỏng vấn trên đã sử dụng một kỹ thuật phỏng vấn khéo léo nào đó để buộc tội nữ thân chủ của mình về những hành động thiếu ý thức, và đã làm cho bà ta không nhìn nhận được chính lỗi lầm của bà. Lúc này tôi mới hiểu rằng một cuộc phỏng vấn như vậy – theo kinh nghiệm của tôi – sẽ không ích gì cho phụ huynh hoặc cho con trẻ. Sự kiện trên cũng làm tôi nhận thức rằng tôi đang từ bỏ bất cứ phương pháp nào có vẻ hối thúc hoặc ngăn cản trong tương giao trị liệu, vì những phương pháp này chẳng bao giờ hữu hiệu cả.

Vài năm sau đó, tôi ghi nhận biến cố thứ ba nữa. Trước đấy, tôi đã học hỏi để biết kiên nhẫn và tỏ ra khéo léo hơn trong việc diễn tả lại cho một thân chủ hành vi của y, cố gắng làm cho thật thích hợp để y dễ chấp nhận. Tôi đã từng tiếp xúc một bà mẹ rất thông minh, có cậu con tính tình ngang ngược. Vấn đề thấy rõ là bà ta đã sớm ruồng rẫy đứa con đó, nhưng qua nhiều lần phỏng vấn, tôi không thể nào làm cho bà nhận ra vấn đề đó, mặc dù đã khéo léo đúc kết những bằng chứng mà chính bà đã trưng ra. Kết cuộc không đi đến đâu và tôi đành đầu hàng. Tôi nói với bà ấy rằng tôi và bà đều cố gắng, nhưng đã thất bại, vậy nên từ bỏ cuộc trị liệu. Bà ta đồng ý, bắt tay tôi rồi ra về. Nhưng khi ra đến cửa, bà quay lại hỏi tôi đã có lần nào hướng dẫn cho người lớn ở đây chưa. Tôi khẽ gật đầu. Thấy thế, bà nói: “Vậy tôi ước muốn được ông giúp đỡ tôi một chút! Nói rồi bà đến ngồi trên chiếc ghế mà trước đó bà đã ngồi, và bắt đầu kể lể sự tuyệt vọng của bà về hôn nhân, về những lộn xộn trong cuộc sống chung với chồng bà và tất cả những gì bà cảm thấy thất bại và bối rối. Những sự kiện này hoàn toàn khác hẳn trường hợp đau lòng mà trước đó bà đã đề cập tới. Từ đây cuộc trị liệu thật sự mới bắt đầu và kết cuộc rất thành công.

Trường hợp trên là một trong những biến cố giúp tôi kinh nghiệm rằng chỉ có thân chủ là người biết rõ vết thương nằm ở chỗ nào, chiều hướng ra sao, vấn đề chính yếu là gì và kinh nghiệm nào đã được chôn lấp sâu xa. Tôi cũng bắt đầu nhận thức rằng nếu tôi không có một nhu cầu cần biểu lộ sự khôn khéo và kiến thức của tôi, thì tốt hơn tôi nên trông cậy vào thân chủ để biết chiều hướng phải đi trong tiến trình trị liệu.

TÂM LÝ GIA?

Trong thời gian này tôi cũng bắt đầu nghi ngờ tôi trong vai trò một tâm lý gia. Đại học Rochester đã cho tôi biết rõ là công việc tôi đang làm lúc đó không phải là công việc về tâm lý, và giới chức Đại học này cũng không quan tâm gì đến việc giảng dạy của tôi tại Phân khoa Tâm lý. Tôi có đến tham dự những buổi họp của Hiệp Hội Tâm lý Hoa Kỳ và ở đây tôi thấy rất nhiều tài liệu về những phương pháp học tập của những con chuột với những cuộc thí nghiệm mà tôi thấy dường như không liên can gì đến công việc tôi đang làm lúc đó. Tuy nhiên, những chuyên viên về tâm lý xã hội ở đây dường như có chung một quan điểm với tôi, vì thế tôi đã tham gia tích cực vào công việc xã hội ở nhiều phạm vi khác nhau. Nhưng phải chờ cho tới ngày Hội Tâm Lý Ứng Dụng được thành lập, tôi mới thực sự trở thành một tâm lý gia hoạt động.

Tôi bắt đầu giảng dạy cho Phân khoa Xã Hội Học về phương pháp làm sao tìm hiều và giải quyết những vấn đề của trẻ. Sau đó, phân khoa Giáo Dục cũng muốn coi giáo trình của tôi như những giáo trình của phân khoa này. (Trước khi tôi rời Đại học Rochester, phân khoa Tâm Lý Học cũng yêu cầu được lấy giáo trình của tôi cho phân khoa này, nghĩa là cuối cùng chấp nhận tôi là một tâm lý gia). Gợi lại những kinh nghiệm này giúp tôi nhận thức tôi đã tỏ ra cương quyết như thế nào trong chọn lựa đường hướng riêng của mình, và tỏ ra không quan tâm nhiều đến vấn đề có nên hòa mình theo người khác hay không.

Tôi không tiện nói ở đây việc thiết lập một Trung tâm Hướng dẫn riêng biệt tại Đại học Rochester cũng như kể lại cuộc tranh chấp gay go với một số bác sĩ tâm thần. Đây chỉ là những rắc rối về quản trị, và không có ảnh hưởng nhiều đến việc phát triển tư tưởng của tôi.

CÁC CON TÔI

Trong những năm tôi làm việc tại Đại học Rochester, các con tôi cũng dần dần vượt qua thời kỳ ấu thơ và qua sự trưởng thành của chúng – tôi đã học hỏi được nhiều hơn về vai trò của cá nhân, về sự phát triển và những tương giao giữa con người với nhau. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy tôi không phải là một người cha thực hoàn hảo khi các con tôi còn nhỏ, nhưng may là vợ tôi lại rất hoàn hảo. Sau này với thời gian, tôi đã trở nên hiểu biết hơn đối với các con tôi.

Dù sao đi nữa, được sống với hai con tôi, một trai một gái, chia sẻ với chúng mọi niềm vui nỗi buồn từ tuổi thơ cho đến lúc trưởng thành, là một đặc quyền vô giá đối với tôi. Nói khác đi, một trong những điều làm cho vợ chồng tôi được thỏa mãn nhất là chúng tôi có thể thực sự cảm thông sâu xa được với các con đã trưởng thành của chúng tôi và cả với vợ chồng của chúng nó nữa.

NHỮNG NĂM SỐNG Ở ĐẠI HỌC OHIO

Năm 1940, tôi nhận một chức vụ ở Đại học tiểu bang Ohio. Lý do duy nhất mà Đại học này mời tôi là tác phẩm “Trị liệu trẻ em” mà tôi đã viết trong những dịp đi nghỉ. Trái với sự mong đợi của tôi, Đại học trên đã cho tôi hưởng trọn qui chế giáo sư thực thụ, và điều này làm tôi rất ngạc nhiên. Tôi rất phấn khởi với nhiệm vụ giảng huấn ở bậc đại học này.

Chính nhờ nỗ lực giảng dạy những điều tôi đã học hỏi được về việc cư xử và khải đạo cho sinh viên đã tốt nghiệp ở Đại học Ohio mà lần đầu tiên tôi bắt đầu ý thức rằng có lẽ tôi đã phát triển được một quan điểm riêng, do kinh nghiệm đem lại. Khi tôi tìm cách làm sáng tỏ một vài tư tưởng này qua một tài liệu viết tại Đại học Minnesota vào tháng chạp năm 1940, tôi đã gặp phải phản ứng rất mạnh mẽ. Sự kiện này đã cho tôi kinh nghiệm đầu tiên là một tư tưởng mới lạ của tôi – dù có vẻ rất hấp dẫn đối với tôi – vẫn có thể là một đe dọa đối với người khác. Hơn thế nữa, tôi cũng cảm thấy nghi ngờ và bối rối không ít khi thấy mình trở thành mục tiêu cho những chỉ trích, những bênh vực hoặc chống đối của dư luận. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy phải đóng góp một cái gì, và tôi đã viết bản thảo cuốn Hướng dẫn và Tâm lý trị liệu trình bày cảm nghĩ của tôi về một chiều hướng hữu hiệu hơn nữa cho khoa trị liệu.

Khi tôi đem bản thảo đến thương lượng thì nhà xuất bản nói rằng tác phẩm của tôi hấp dẫn và mới lạ, nhưng không biết những lớp học nào sẽ dùng được. Tôi cho biết là tôi đã dạy một khóa ở Đại học và hiện đang đảm trách một lớp khác. Nhưng theo ý nhà xuất bản thì tôi đã có một lầm lỗi lớn là không viết một giáo trình thích hợp với lớp mà tôi đã dạy. Ông tỏ ý nghi ngờ không biết tác phẩm của tôi có bán nổi hai ngàn cuốn hay không. Tuy nhiên ông bằng lòng nhận xuất bản sau khi thấy tôi có ý muốn tìm một nhà xuất bản khác. Bây giờ thì tôi không biết rằng giữa tôi và nhà xuất bản, ai phải ngạc nhiên hơn ai về mức tiêu thụ của tác phẩm trên, vỉ cho đến nay đã bán được bảy mươi ngàn cuốn và còn đang tiếp tục được tiêu thụ.

NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Cho đến nay, tôi đã viết thành tài liệu tất cả những gì tôi đã dạy trong năm năm ở Đại học Ohio, mười hai năm ở Đại học Chicago và bốn năm ở Đại học Wisconsin. Ở đây, tôi sẽ vắn tắt nhấn mạnh đến hai hoặc ba điểm có ý nghĩa đối với tôi. Trước hết, tôi đã học hỏi được cách hòa mình thật sâu đậm vào những tương giao trị liệu với một số thân chủ ngày một gia tăng. Đây là một điều vô cùng khích lệ, mặc dù đôi khi nó có thể làm cho tôi hoảng sợ khi một thân chủ bị rối loạn nặng tỏ ý muốn tôi phải vượt mức khả năng của mình hơn nữa để đáp ứng nhu cầu của y. Dĩ nhiên, thực hành việc trị liệu đòi hỏi chuyên viên trị liệu phải phát hiện liên tục con người của mình, mặc dù điều đó đòi hỏi nhiều nỗ lực, nhưng cuối cùng sẽ là một đền bù khích lệ.

Tôi cũng muốn được đề cập ở đây tính chất quan trọng ngày một gia tăng của công trình khảo cứu. Trị liệu là một phạm vi kinh nghiệm mà tôi có thể cho phép mình chủ quan. Nhưng nghiên cứu là phạm vi mà tôi phải hết sức tỏ ra khách quan, và áp dụng những phương pháp khoa học để thẩm định xem mình có lừa dối mình hay không. Niềm tin của tôi là chúng ta sẽ khám phá ra được những quy luật về nhân cách và hành động, là những quy luật rất quan trọng cho sự tiến bộ và hiểu biết của con người, cũng như quy luật về trọng lực hoặc những quy luật về môn nhiệt động học.

Trong hai muơi năm qua, tôi đã trở nên quen thuộc hơn với dư luận chỉ trích, nhưng tôi vẫn kinh ngạc trước những phản ứng của người khác đối với những tư tưởng của tôi. Theo ý tôi, dường như tôi đã trình bày tư tưởng của tôi một cách tạm thời để được độc giả hay sinh viên chấp thuận hay bác bỏ. Nhưng rất nhiều lần và ở nhiều nơi khác nhau, quan điểm của tôi đã làm cho nhiều tâm lý gia, nhiều chuyên viên hướng dẫn và nhà giáo dục phải nổi sùng, khinh bỉ hoặc chỉ trích dữ dội. Khi làn sóng công phẫn này dần dần xẹp xuống trong giới những phản đối trên thì mấy năm qua nó lại dâng lên trong giới bác sĩ tâm thần. Một số chuỵên viên này đã nghĩ rằng đường lối làm việc của tôi là một đe dọa đối với nhiều nguyên tắc bất di bất dịch mà họ theo đuổi tha thiết nhất. Nhưng theo ý tôi thì sự chỉ trích trên cũng chưa thể sánh với tai hại gây nên bởi những “môn đệ” vô trách nhiệm. Họ là những người đã thâu thập được cho mình một chút quan điểm mới – rồi khởi từ đó – cũng tham gia tranh luận với những hiểu biết vừa chính xác vừa sai lầm về tôi và công việc của tôi. Đôi khi tôi thấy khó mà phân biệt mình đã bị “bạn” hay “thù” làm tổn thương nhiều hơn.

Có lẽ một phần cũng vì bị phiền nhiễu, chỉ trích mà tôi đã đi đến chỗ đánh giá cao cái đặc quyền được tách mình ra khỏi chung quanh. Dường như những năm thành công nhất trong công việc của tôi là những thời kỳ tôi có thể hoàn toàn không biết người khác nghĩ gì về tôi, về công việc của tôi, và tôi chỉ còn biết chăm chú vào công việc mình đang làm. Tôi và vợ tôi đã sống ẩn dật ở Mễ Tây Cơ và vùng vịnh Carribean, nơi đây không ai biết tôi là một tâm lý gia, và tôi đã dành phần lớn thì giờ vào hội họa, đi bơi hoặc chụp ảnh màu một số cảnh đẹp. Thời gian ở những nơi này, tuy chỉ dành mỗi ngày từ hai tới bốn giờ cho công việc chuyên môn, nhưng tôi đã đạt được những thành quả tốt đẹp nhiều hơn bất cứ thành quả nào trong mấy năm qua. Vì thế, tôi đánh giá cao đặc quyền được sống riêng một mình.

*****

MỘT VÀI ĐIỀU HỌC HỎI QUAN TRỌNG

Trên đây là một vài nét đại cương về đời sống nghề nghiệp của tôi. Tôi muốn mời bạn đi sâu vào một số điều học hỏi mà tôi đã lãnh hội được sau hàng ngàn giờ đồng hồ làm việc thân mật với những cá nhân đau khổ.

i xin nói ngay rằng những điều học hỏi này rất có ý nghĩa đối với tôi, nhưng tôi không biết nó có đúng đ ối với bạn hay không. Tôi không có ước vọng trình bày những điều này như một kim chỉ nam ch o bất cứ ai. Phần tôi, tôi nhận thấy rằng khi có ai sẵn sàng nói cho tôi biết một ít điều về những đường hướng nội tâm của người đó, thì điều này rất có giá trị đối với tôi, nếu nó giúp tôi nhận thức thêm rằng những đường hướng của tôi không giống như vậy. Trong tinh thần đó, tôi xin cống hiến những điều học hỏi này.

Ở mỗi trường hợp, tôi đều tin rằng những điều này đã một phần nào hướng dẫn hành động và niềm xác tín trong tôi khá lâu trước khi tôi ý thức rõ được như vậy. Đó là những điều học hỏi lẻ tẻ và chưa đầy đủ, nhưng tôi chỉ có thể nói được rằng hiện giờ – và từ trước đến nay – những điều học hỏi này rất quan trọng đối với tôi. Tôi liên tục học đi học lại những điều đó. Thường khi tôi không hành động đúng với nó, nhưng sau đó tôi vẫn ước muốn được áp dụng như vậy. Hơn nữa, tôi cũng thường không nhận ra một hoàn cảnh mới, có thể áp dụng được những điều học hỏi này.

Thực ra, những điều học hỏi này không cố định, mà luôn luôn thay đổi. Có một số điều cần được nhấn mạnh hơn nữa, và cũng có những điều đôi khi ít quan trọng hơn, nhưng nói chung đều rất có ý nghĩa đối với tôi.

Tôi sẽ lần lượt trình bày mỗi điều bằng một vài câu nói lên ý nghĩa riêng của nó. Rồi tôi sẽ khai triển thêm. Những điều học hỏi đầu tiên là những điều nói nhiều về sự tương giao với người khác. Sau đó là những điều nói về giá trị cá nhân và những niềm xác tín.

*****

Những học hỏi liên quan đến sự tương giao với người khác:

1a.

Trong khi tiếp xúc với những người khác, tôi đã nhận thấy rằng nếu tôi hành động có vẻ như không trung thực là tôi, thì kết cuộc chẳng giúp ích gì cho ai cả. Nghĩa là, nếu thực sự tôi bực mình và gay gắt, mà lại làm ra vẻ bình thản vui vẻ thì chẳng ích gì. Nó cũng chẳng ích lợi gì khi tôi làm ra vẻ biết câu giải đáp trong khi thực sự mù tịt hoặc thực sự mình chống đối, nhưng lại vờ tỏ ra là người muốn yêu thương kẻ khác. Mặt khác, nếu thực sự tôi hốt hoảng và bất an nhưng lại tỏ ra rất tự chủ, thì cũng chẳng ích gì cho ai.

Nói một cách khác, trong tương giao của tôi với tha nhân, nếu tôi cố mang mặt nạ để che dấu tâm trạng thực sự của tôi ở bên trong, thì mối tương giao của tôi chẳng đem lại kết quả hữu ích nào. Nghĩa là, tôi không thể thiết lập được những giao hảo tốt đẹp với người khác. Đây là điều học hỏi tôi đã đã thực sự lãnh hội được, nhưng đúng ra tôi chưa lợi dụng triệt để được nó.

Thực tế vẫn cho thấy là những lỗi lầm của tôi trong những tương giao cá nhân, cũng như những lần tôi không giúp ích được cho người khác, hầu hết được bắt nguồn từ một số thái độ phòng vệ của tôi hoặc cách ứng xử bề ngoài của tôi có phần mâu thuẫn với cảm nghĩ thực sự của tôi.

2a.

Điều học hỏi thứ hai tôi có thể chấp nhận lắng nghe chính tôi và hành động đúng là tôi, thì tôi thấy có hiệu quả hơn. Mấy năm qua, tôi đã học hỏi đế biết lắng nghe mình một cách thích đáng hơn. Vì thế bây giờ tôi biết được tôi đang cảm thấy gì, tôi đang tức giận, hoặc đang từ chối người này, đang trìu mến và thắm thiết với người kia, đang cảm thấy nhàm chán hoặc không chú ý đến việc diễn ra trước mắt, đang khao khát được tìm hiểu người kia hay đang âu lo về mối tương giao của tôi với người nọ. Tóm lại, giờ đây, tôi có thể lắng nghe trong tôi tất cả những thái độ, những tình cảm khác nhau này. Nói một cách khác, tôi cảm thấy tôi đã trở nên thích đáng hơn trong sự biểu lộ tôi là tôi. Cũng nhờ thế mà tôi thấy dễ dàng hơn khi chấp nhân mình là một con người thực sự chưa hoàn hảo, nhưng đã biết hành động đúng theo con đường mà mình muốn hành động trong mọi trường hợp.

Đối với một số người, điều này có thể là một đường hướng rất kỳ lạ. Đối với tôi nó lại có giá trị, vì cái nghịch lý lạ lùng là khi tôi chấp nhận tôi như tôi thực sự là, thì tôi lại thấy mình thay đổi. Tôi tin rằng tôi đã học được điều này ở các thân chủ của tôi cũng như qua kinh nghiệm của riêng tôi: là chúng ta không thể thay đổi và không thể tách rời ra khỏi những gì làm thành con người của chúng ta cho đến khi nào chúng ta hoàn toàn chấp nhận nó. Khi đó, sự thay đổi sẽ xảy ra mà hầu như không ai nhận thấy.

Thái độ nhìn nhận tôi là tôi đem lại một kết quả nữa là sự tương giao trở nên thực sự với tất cả ý nghĩa sống động của nó. Nếu tôi có thể chấp nhận sự kiện tôi đang bị thân chủ này quấy rầy hoặc làm khó chịu thì rất có thể tôi sẽ chấp nhận kinh nghiệm đã thay đổi và những tình cảm đã thay đổi có thể xảy đến lúc đó trong tôi và trong thân chủ đó. Tương giao thực sự thường có khuynh hướng thay đổi hơn là cố định một chỗ.

Vì thế tôi thấy có hiệu quả khi tôi biểu lộ qua thái độ của tôi tất cả những gì là tôi, nghĩa là biết được giới hạn chịu đựng và khoan dung của mình đến đâu và chấp nhận điều này như một sự kiện. Mặt khác, tôi cũng ý thức được rằng khi nào tôi muốn uốn nắn người khác và cũng chấp nhận điều này như một sự kiện trong tôi. Tôi ước muốn chấp nhận những tình cảm như: nồng nàn, tha thiết, dễ dãi, tử tế và hiểu biết, tức những tình cảm có trong con người thực của tôi. Khi tôi chấp nhận tất cả những thái độ tình cảm này như một sự kiện, một thành phần trong tôi, thì mối giao hảo của tôi với người khác trở nên đúng với ý nghĩa mong muốn và có thế phát triển hoặc sẵn sàng thay đổi.

3a.

Đến đây tôi xin đề cập đến một điều học hỏi chính, có ý nghĩa rất lớn đối với tôi. Điều học hỏi này có thể được diễn tả như sau: Khi tôi có thể cho phép mình hiểu biết người khác thì đó là một điều quý giá to lớn mà tôi đã học hỏi được. Câu nói này của tôi có vẻ kỳ lạ đối với bạn. Thực ra có cần thiết cho phép mình hiểu biết kẻ khác hay không? Theo tôi thì cần thiết. Phần nhiều, khi nghe người khác nói, phản ứng đầu tiên của chúng ta là lập tức thẩm định giá trị, hoặc phán đoán hơn là tìm hiểu ý nghĩa của lời nói đó. Khi có người biểu lộ một cảm tình hay thái độ hoặc niềm tin tưởng nào đó, thì hầu như tức khắc chúng ta có khuynh hướng đưa ra những lời bình phẩm như “đúng”, “ngu”, “không bình thường”, “không hợp lý”, “sai”, hoặc “không hay”. Rất ít khi chúng ta cho phép mình tìm hiểu một cách chính xác ý nghĩa câu nói của diễn giả. Tôi nghĩ chắc tại vì tìm hiểu là điều có vẻ liều lĩnh chăng. Nếu tôi thực sự cho phép tôi tìm hiểu người khác thì rất có thể là sự hiểu biết này sẽ làm tôi thay đổi. Vì thế tôi nói cho phép mình tìm hiểu người khác một cách sâu xa, tường tận quả thật không phải là một chuyện dễ. Nó cũng là một điều hiếm có nữa.

Thực ra, hiểu biết là được phong phú trên hai phương diện. Khi tôi làm việc với các thân chủ bị tuyệt vọng, tìm hiểu được cái thế giới kỳ quặc của người bị thác loạn tâm lý, hiểu được hoặc cảm thông những thái độ của người cảm thấy đời quá bi thảm, hoặc hiểu được tâm trạng của người đang cảm thấy mình là đồ bỏ, thì quả thật là những điều hiểu biết làm cho tôi phong phú thêm. Từ những kinh nghiệm này, tôi học hỏi được những cách làm thay đổi con người của tôi, và làm cho tôi trở thành một người khác hẳn, nhưng biết đáp ứng hơn nữa.

Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn nữa là sự hiểu biết của tôi về những cá nhân này khiến họ cũng thay đổi. Sự hiểu biết của tôi cho phép họ chấp nhận những lo sợ của họ, cùng với những tư tưởng kỳ lạ, những tình cảm bi thảm và chán nản, cũng như chấp nhận những lúc họ cảm thấy can đảm, tử tế, yêu thương và nhạy cảm. Theo kinh nghiệm của tôi và của những người khác thì khi ta thực sự hiểu biết những tình cảm trên, ta cũng dễ chấp nhận chúng ở trong ta. Khi đó, ta sẽ thấy ta và những tình cảm đó luôn thay đổi. Mặt khác, được người ta hiểu biết mình cũng có một giá trị tích cực và quan trọng không kém sự tìm hiểu người khác.

4a.

Đến đây, tôi xin đề cập đến một điều học hỏi nữa, quan trọng đối với tôi. Đó là sự kiện tôi cảm thấy được phong phú khi tôi tạo được điều kiện thuận lợi để người khác có thể truyền thông cho tôi những cảm tình của họ, và ngay cả cái thế giới nội tâm riêng tư của họ nữa. Vì hiểu biết là điều được đền bù thỏa đáng, nên tôi muốn loại bỏ những hàng rào ngăn cách giữa tôi và người khác để họ có thể biểu lộ họ một cách đầy đủ hơn nếu họ muốn.

Trong tương giao trị liệu, có một số phương cách mà tôi có thể dùng để làm cho thân chủ cảm thấy dễ bộc lộ mình hơn. Bằng thái độ của tôi, tôi có thể tạo ra một sự an toàn trong không khí tương giao để cho sự cảm thông có thể thực hiện được. Thí dụ tỏ thái độ hiểu biết đúng về thân chủ, chấp nhận y là người có những nhận thức và tình cảm như vậy cũng rất hữu ích.

Nhưng khi ở vai trò nhà giáo, tôi đã thấy rằng nếu tôi tạo được những điều kiện giúp người khác có thể chia sẻ tâm tình của họ đối với tôi, thì quả thực tôi đã được phong phú. Vì thế, tôi thường cố gắng – mặc dù cũng luôn thất bại – tạo cho lớp học một bầu không khí mà trong đó học sinh có thể biểu lộ được cảm tình của chúng khác nhau và khác với cả thầy dạy của chúng. Tôi cũng thường yêu cầu sinh viên viết cho tôi những tờ phản ứng trong đó họ có thể biểu lộ những cảm tình của họ đối với người giảng dạy, hoặc nói đến những khó khăn mà họ đã gặp khi theo học. Những tờ bày tỏ phản ứng này không liên can gì đến thứ hạng họ. Đôi khi, trong một khóa học, những buổi diễn giảng lại được đón nhận với những phản ứng trái ngược nhau. Có sinh viên thì tuyên bố: “Với không khí của lớp học này tôi cảm thấy một thứ tình cảm nối loạn khó diễn tả.” Nhưng cũng phát biểu về cảm tưởng về lớp học trên, một sinh viên ngoại quốc lại nói: “Lớp chúng ta đã theo một phương pháp học tập khoa học và có kết quả nhất. Nhưng đối với những sinh viên từ lâu vẫn quen được giảng dạy bằng phương pháp diễn giảng và chăm chú nghe thầy dạy như chúng tôi, thì phương pháp mới này không sao có thể hiểu được, chúng tôi chỉ quen nghe giảng viên, rồi thụ động ghi chép và nhớ thuộc lòng những giảng khóa để đi thi. Dĩ nhiên là phải mất một thời gian lâu để cho sinh viên bỏ những thói quen cũ của mình, dù cho những thói quen đó có tốt đẹp và hữu ích hay không.” Được nghe những cảm nghĩ rất trái ngược nhau như thế này là một điều khích lệ lớn đối với tôi.

Tôi cũng ghi nhận sự kiện trên ở những nhóm học tập do tôi chủ xướng. Tôi ước muốn được giảm bớt sự sợ sệt hoặc thái độ phòng vệ để các nhóm viên có thể biểu lộ tình cảm của mình một cách tự do. Đây là một điều thích thú nhất, và đã đưa tôi đến một quan niệm hoàn toàn mới về vai trò điều khiển.

5a.

Đến đây tôi xin trình bày một điều học hỏi nữa, rất quan trọng đối với tôi trong công tác hướng dẫn. Điều học hỏi này có thể được tóm tắt như sau: Khi tôi có thể chấp nhận một người khác, thì đó là một phần thưởng lớn lao.

Kinh nghiệm đã cho tôi biết rằng thực tình chấp nhận một người cùng với tất cả tình cảm của người đó, chắc chắn không phải là một điều dễ dàng. Liệu tôi có thể cho phép một người khác gây hấn với tôi không? Liệu tôi có thể chấp nhận người đó mặc dù thái độ nhìn đời của y khá hắn thái độ của tôi? Liệu tôi có thể chấp nhận y khi thấy y tỏ ra khâm phục tôi và muốn sống theo tôi? Tất cả vấn đề chấp nhận là thế đó, và muốn chấp nhận không phải là chuyện dễ. Đối với chúng ta, chúng ta thất rất khó mà chấp nhận để con em mình, hoặc cha mẹ, vợ chồng mình cảm nghĩ khác chúng ta về một số vấn đề đặc biệt nào đó. Sở dĩ thế vì mỗt người chúng ta – do ảnh hưởng văn hóa – đều muốn tin rằng “người khác cũng phải cảm nghĩ và tin như tôi”. Do đó, chúng ta không thể cho phép thân chủ hoặc sinh viên của chúng ta khác chúng ta hoặc sử dụng kinh nghiệm theo đường lối riêng tư của họ. Trên bình diện quốc gia, chúng ta không thể cho phép một quốc gia khác cảm nghĩ quá khác biệt với chúng ta. Nhưng theo nhận xét của tôi, nếu mỗi cá nhân được sống tách biệt khỏi người khác, có quyền sống theo kinh nghiệm riêng tư của mình để tìm ra ý nghĩa cho đời mình qua kinh nghiệm ấy, thì quả thật đó là một trong những tiềm năng vô giá của cuộc sống. Mỗi cá nhân là một hòn đảo riêng của mình và cá nhân đó chỉ có thể bắc cầu đi qua những hòn đảo khác nếu trước hết y muốn được là y và cũng được người khác công nhận như vậy trong tư cách đó. Như vậy khi tôi có thể chấp nhận một người khác, chấp nhận tất cả tình cảm, thái độ và niềm tin của y như những thực tế trong con người y, thì lúc đó tôi đang giúp y trở thành một con người và đối với tôi, điều này có giá trị rất lớn.

6a.

Tiếp đến một điều học hỏi nữa, có thể hơi khó diễn tả. Đó là nếu tôi tỏ ra cởi mở với những thực tại ở trong tôi và ở nơi người khác, thì càng ít muốn vội vã ổn định mục tiêu. Khi tôi cố gắng lắng nghe tôi để thấy kinh nghiệm diễn tiến trong tôi – và hơn thế nữa – khi tôi càng giữ thái độ lắng nghe đó với người khác, tôi lại càng cảm thấy tôn trọng những tiến trình phức tạp của cuộc sống. Vì thế, tôi lại càng thấy ít có khuynh hướng muốn hấp tấp ổn định sự việc, đặt mục tiêu, và uốn nắn người khác để thúc đẩy họ đi vào con đường tôi mong muốn. Tôi cảm thấy rất hài lòng vì được là tôi và để người khác là người khác. Tôi biết rõ điều này có vẻ rất kỳ lạ, hầu như đó là một quan điểm của Đông phương. Đời có nghĩa là gì, nếu chúng ta không làm một cái gì cho người khác, không khuyên dụ họ chấp nhận mục đích của chúng ta và không rao giảng cho họ những điều mà chúng ta nghĩ họ nên học? Sống để làm gì, nếu chúng ta không làm cho người khác cảm nghĩ như chúng ta? Làm sao để mọi người có được quan điểm thụ động như quan điểm mà tôi đang diễn tả? Tôi tin chắc rằng những thái độ vừa nêu trên có trong phản ứng của nhiều người trong các bạn.

Tuy nhiên, theo khía cạnh nghịch lý trong kinh nghiệm của tôi, nếu tôi càng giản dị muốn là tôi trước những phức tạp của cuộc sống, và nếu tôi càng muốn tìm hiểu và chấp nhận những thực tế trong tôi cũng như nơi người khác, thì tôi cảm thấy có thêm thay đổi. Một sự kiện rất nghịch lý là trong chừng mực mà mỗi người chúng ta muốn được là mình, thì lúc đó không những ta thấy ta đang thay đổi mà ngay cả cá nhân ta giao tiếp cũng đang thay đổi nữa. Ít nhất đây là một khía cạnh rất sống động trong kinh nghiệm của tôi, và cũng là một trong những điều học hỏi sâu xa nhất mà tôi đang lãnh hội được qua nghề nghiệp và đời sống cá nhân của tôi.

*****

Đến đây tôi xin đề cập đến một vài điều học hỏi khác, ít liên quan đến vấn đề tương giao, nhưng liên hệ nhiều đến hành động và giá trị mà tôi đang theo đuổi:

1b.

Trước hết là điều tôi có thể tín nhiệm kinh nghiệm của tôi.

Một trong những điều căn bản mà tôi đã nhận thức từ lâu – và hiện giờ còn học hỏi – là khi một điều gì ta cảm thấy có giá trị và đáng làm, thì thực sự nó đáng làm. Nói một cách khác, kinh nghiệm đã dạy cho tôi biết rằng khi toàn thể cơ năng của tôi nhận thức một hoàn cảnh nào đó, thì nhận thức này đáng tín nhiệm hơn hiểu biết bằng lý trí của tôi.

Tất cả đời sống nghề nghiệp của tôi đều đã đi theo những con đường mà người khác nghĩ là ngu xuẩn, và chính tôi, tôi cũng có nhiều nghi ngờ. Nhưng tôi không bao giờ hối tiếc là đã đi vào những con đường mà tôi cảm thấy là đúng, mặc dù tôi vẫn thường cảm thấy cô đơn hoặc ngu xuẩn đôi khi.

Tôi nhận thấy rằng khi tôi tín nhiệm một nhận thức nào đó, không phải do thông minh điều khiển, tôi đã tìm thấy sự khôn ngoan trong hướng đi. Tôi thấy rằng khi tôi đi theo một trong những con đường không thông thường này, vì thấy nó đúng, thì các đồng nghiệp của tôi cũng đi theo tôi trong năm mười năm và tôi không còn cảm thấy cô đơn độc hành nữa.

Khi tôi dần dần tín nhiệm toàn thể mọi phản ứng của tôi một cách sâu xa hơn, tôi cũng nhận thấy tôi có thể sử dụng những phản ứng này để hướng dẫn tư tưởng của mình. Tôi càng trở nên biết tôn trọng những tư tưởng mơ hồ đó mà đôi khi đã xuất hiện trong tôi và dường như rất có ý nghĩa. Tôi tin rằng những tư tưởng không rõ rệt đó sẽ dẫn đưa tôi đến những chân trời quan trọng. Tôi nghĩ đến những tư tưởng đó qua thái độ tín nhiệm toàn thể kinh nghiệm của tôi – mà tôi cho là còn khôn ngoan hơn cả lý trí của tôi nữa. Tôi chắc nó có thể sai lầm nhưng ít sai lầm hơn tâm trí của tôi. Max Weber, một nghệ sĩ, đã diễn tả rất đúng thái độ này khi ông nói: “Trong lúc nỗ lực sáng tạo, tôi tùy thuộc phần lớn vào yếu tố tôi chưa biết đến và cũng chưa từng sáng tạo”.

Liên quan mật thiết tới điều học hỏi này là điều tôi nhận thấy rằng sự thẩm định giá trị của người khác không giúp hướng dẫn gì cho tôi. Sự phán đoán của người khác cũng không bao giờ là một hướng dẫn đối với tôi mặc dù ta phải lắng nghe và chấp nhận họ. Đấy là một điều học hỏi khó hấp thụ. Tôi còn nhớ trước kia có một nhân vật nhận trí thức mà tôi xem như là một tâm lý gia uyên thâm hơn tôi rất nhiều, đã có lần nói rằng tôi lầm lỗi trong quyết định chọn ngành tâm lý trị liệu. Nghề này không bao giờ đưa tới đâu, và ở cương vị một tâm lý gia, tôi cũng không có cơ hội thực hành nghề đó.

Trong mấy năm sau này, đôi khi tôi cũng có dịp nhận thấy rằng, dưới mắt một số người, dường như tôi là một thứ lang y giả hiệu, hành nghề không có giấy phép, tác giả của một mớ lý thuyết tai hại về trị liệu, một người thích quyền lực, một nhân vật huyền bí…Và tôi cũng nhận thấy rằng nếu người ta khen tặng tôi quá mức thì cũng làm cho tôi bối rối quá độ, nhưng tôi không quá quan tâm đến chuyện này vì tôi đã cảm thấy chỉ có một người duy nhất có thể biết đến công việc tôi đang làm là lương thiện, ngay thẳng và tốt đẹp hay giả dối, phòng vệ và không lương thiện. Người đó chính là tôi.

Tôi sung sướng có được tất cả mọi bằng chứng về việc tôi đang làm và sự chỉ trích – dù thân thiện hay thù ghét – cũng như khen ngợi – thành thật hay nịnh bợ – đều nằm trong bằng chứng ấy. Nhưng thẩm định ý nghĩa và sự hữu dụng của bằng chứng này là việc tôi không thể trao phó cho bất cứ ai.

2b.

Một điều học hỏi nữa của tôi chắc sẽ không làm cho bạn ngạc nhiên, là đối với tôi kinh nghiệm được coi là thẩm quyền cao nhất.

Có thể nói kinh nghiệm của riêng tôi là tiêu chuẩn của giá trị. Tư tưởng của người khác và của tôi cũng không đáng tin cậy bằng kinh nghiệm của tôi. Chính nhờ kinh nghiệm mà tôi phải vận dụng cách này cách khác để tiến tới gần chân lý hơn nữa trong tiến trình thành nhân của tôi.

Có thể nói, Thánh Kinh và các tiên tri, Freud và mọi công trình tìm tòi, mặc khải của thượng đế hay con người cũng không thể đi trước kinh nghiệm trực tiếp của tôi.

Nói theo danh từ của nhà ngữ ý học thì kinh nghiệm của tôi có quyền lực cao hơn, khi nó trở nên căn bản hơn. Do đó, toàn bộ kinh nghiệm sẽ có thẩm quyền nhất ở bình diện thấp nhất của nó. Nếu tôi đọc một lý thuyết về tâm lý trị liệu, nếu tôi tìm cách công thức hóa lý thuyết đó dựa trên công việc của tôi nơi các thân chủ, và nếu tôi cũng có một kinh nghiệm trực tiếp về tâm lý trị liệu với thân chủ nào đó, thì mức độ thẩm quyền (thẩm quyền: authority) sẽ gia tăng theo thứ tự mà tôi đã liệt kê những kinh nghiệm này.

Không phải kinh nghiệm của tôi có thẩm quyền bởi vì nó không sai lầm. Nó là căn bản của thẩm quyền bởi vì nó luôn luôn có thể được kiểm chứng bằng đường lối mới mẻ. Bằng cách ấy, những sai lầm thường xuyên của nó luôn luôn được sửa chữa.

3b.

Một điều học hỏi riêng nữa là tôi sung sướng được khám phá trật tự trong kinh nghiệm. Tôi không sao tránh khỏi tìm kiếm ý nghĩa, tính cách ngăn nắp hoặc cái vẻ có quy luật của toàn bộ kinh nghiệm. Chính thái độ tò mò này đã đưa tôi đến chỗ công thức hóa những điều tôi đã trình bày, và tôi rất thích thú được tò mò như vậy. Tôi đã nhờ đó mà nghiên cứu sự ngăn nắp trong công việc bề bộn của các chuyên viên trị liệu trẻ em, và đã hoàn thành tác phẩm “Vấn đề trị liệu cho trẻ.” Sự tò mò này cũng đưa tôi đến chỗ công thức hóa những nguyên tắc tổng quát có thể áp dụng trong ngành Tâm lý trị liệu, và tham chiếu để viết một số sách hoặc bài vở. Nó cũng hướng dẫn tôi nghiên cứu để thí nghiệm nhiều loại hình thức quy luật mà tôi đã gặp phải trong kinh nghiệm. Nó cũng khích lệ tôi đề ra những lý thuyết nhằm sắp đặt cho có thứ tự những gì đã kinh nghiệm được và áp dụng trật tự này vào những lãnh vực mới, chưa khám phá nhưng có thể được thí nghiệm thêm nữa.

Có thể nói tôi đã nhận thức được rằng cả hai công trình nghiên cứu khoa học và phương pháp kiến tạo lý thuyết đều nhằm sắp đặt trật tự bên trong của những kinh nghiệm quan trọng. Nghiên cứu là một nỗ lực bền bỉ nhằm tìm ý nghĩa và trật tự qua những biểu lộ của kinh nghiệm chủ quan. Sự thật là tôi lấy làm thỏa mãn được chiêm ngưỡng vũ trụ trong trật tự, cũng như hiểu được những liên hệ lớp lang trong thiên nhiên.

Tôi dốc tâm vào nghiên cứu và kiến tạo lý thuyết là cốt để thỏa mãn nhu cầu nhận thức và ý nghĩa, một nhu cầu chủ quan của tôi. Nhưng đôi khi tôi cũng đã nghiên cứu vì lý do khác – vì muốn thỏa mãn người khác, muốn thuyết phục những đối thủ hoặc những người hoài nghi, muốn tiến bộ về nghề nghiệp, muốn có uy tín hay vì những lý do khác. Những lỗi lầm trong sự phán đoán và hoạt động chỉ giúp thuyết phục tôi thêm tin tưởng mạnh mẽ rằng chỉ có một lý do tốt đẹp để theo đuổi những hoạt động khoa học, đó là nhu cầu đang hiện hữu trong tôi để tìm hiểu ý nghĩa của mọi sự.

4b.

Một điều học hỏi nữa mà tôi đã mất lâu ngày để hấp thụ được, đó là mọi sự kiện đều thân hữu. Tôi rất chú ý đến sự kiện hầu hết các tâm lý gia trị liệu, đặc biệt là các nhà phân tâm học, đã khẳng khái từ chối điều tra một cách khoa học công việc trị liệu của họ hoặc cho phép người khác làm như vậy. Tôi có thể hiểu được thái độ này vì tôi đã cảm thấy nó. Đặc biệt trong những cuộc điều tra đầu tiên của chúng tôi, tôi còn nhớ rõ sự âu lo đợi chờ kết quả tra cứu. Giả sử giả thuyết của mình không đúng, giả sử mình quan niệm sai lầm, hoặc giả sử ý kiến của mình không chứng minh được. Mỗi cái giả sử như vậy, bây giờ nhìn lại, tôi thấy dường như trước đây tôi đã coi những sự kiện như những kẻ thù đáng sợ, như những điều mang tai họa đến. Có lẽ tôi phải mất một thời gian lâu dài để nhận thức được rằng những sự kiện đều rất thân thiện. Trong bất cứ lãnh vực nào, một sự kiện hiển nhiên nhỏ bé cũng có thể đưa ta đến gần kề chân lý hơn. Và được gần kề chân lý bao nhiêu thì chẳng bao giờ lại là một điều tai hại hoặc bất mãn. Vì thế, mặc dù tôi vẫn ghét điều chỉnh lại tư tưởng của tôi, cũng như không chịu từ bỏ những đường lối cũ về nhận thức và quan niệm, nhưng ở một mức độ thâm sâu nào đó, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng học tập có nghĩa là chấp nhận những điều chỉnh như vậy, dù cho nó là một kinh nghiệm đau lòng nhưng luôn luôn đưa đến cái gì thỏa thích hơn, một cái gì chính xác hơn về cách hiểu đời.

Chính vì thế mà hiện nay đối với tôi, một trong những lãnh vực hấp dẫn nhất cho suy tư và hoài nghi là lãnh vực tôi không thấy xuất hiện bóng dáng một số tư tưởng nòng cốt của tôi. Hiểu được khía cạnh khúc mắc của sự kiện này đã giúp tôi xích lại gần chân lý một cách thích thú hơn. Tóm lại, tôi cảm thấy chắc chắn rằng mọi sự kiện đều là những thân hữu của tôi.

5b.

Một điều học hỏi nữa có thể coi là thích thú nhất vì nó làm cho tôi cảm thấy mình giống người khác một cách rõ rệt. Điều học hỏi này có thể được diễn tả thế này: Cái gì có vẻ cá nhân nhất thì cũng lại phổ quát nhất. Có nhiều lần nói chuyện với sinh viên hoặc với nhân viên điều hành, hay phải viết lách điều gì, tôi đã biểu lộ tâm tình tôi một cách riêng tư đến nỗi tôi nghĩ rằng không ai có thể hiểu được vì nó có vẻ độc đáo của riêng tôi quá. Hai trường hợp viết điển hình như vậy là lần viết bài tựa cho cuốn “Thân chủ trọng tâm” (bị các nhà xuất bản coi là không phù hợp nhất) và một bài viết về “Nhân vị hay khoa học”. Trong hai trường hợp này, tôi có dịp nhận thấy chính cái cảm nghĩ mà tôi cho là của riêng cá nhân tôi nhất là khó cho người khác hiểu được thì thực ra lại là một tâm tình gây ra âm hưởng nơi nhiều người khác. Sự kiện này đã đưa tôi đến chỗ tin tưởng rằng cái gì có vẻ cá nhân nhất, có vẻ độc đáo nơi mỗi người chúng ta thì có lẽ lại là yếu tố được người khác lãnh hội một cách sâu xa nhất nếu được chia sẻ hoặc phải biểu lộ ra. Điều này giúp tôi hiểu được các nghệ sĩ và thi sĩ là những người dám biểu lộ cái độc đáo của chính họ.

6b.

Còn một điều học hỏi nữa mà có lẽ là căn bản cho tất cả những điều tôi đã nói ở trên. Điều học hỏi này đã đến với tôi trong hơn hai mươi năm qua, với sự cố gắng giúp ích cho những người bị tuyệt vọng vì những chuyện riêng tư của mình. Điều học hỏi này chỉ đơn giản có thế này: Theo kinh nghiệm của tôi thì mọi cá nhân đều có một đường hướng căn bản tích cực. Trong những cuộc tiếp xúc sâu xa nhất với các thân chủ trị liệu ngay với cả những người có vấn đề rắc rối nhất, những người có hành động chống lại xã hội nhất, hoặc có những tâm tình bất thường nhất, tôi vẫn nhận thấy điều nhận định trên là đúng. Mỗi khi tôi có thể cảm thấy hiểu được những tâm tình mà họ đang diễn tả, và chấp nhận họ như những cá nhân riêng biệt ở đúng vị trí riêng của họ, tôi thấy họ ngả chiều theo những hướng đi rõ rệt. Đó là những hướng nào? Để mô tả, tôi tin rằng những danh từ đúng đắn nhất phải là: tích cực, tiến đến chỗ mình là trung tâm xây dựng, tiến đến trưởng thành và tiến đến xã hội hóa (socialization).

Tôi còn nhận thấy rằng cá nhân càng được hiểu biết và chấp nhận bao nhiêu, thì y càng tiến tới chỗ bỏ rơi những mặt nạ giả dối mà y vẫn đeo trước cuộc đời, và y càng tiến về chiều hướng đi lên hơn.

Tôi không muốn bị hiểu lầm về điều này. Tôi không lạc quan quá mức về nhân bản. Tôi hoàn toàn ý thức rằng ngoài thái độ phòng vệ và sợ hãi bên trong ra, người ta ai cũng có thể và đã từng có những hành động nói được là tàn bạo và phá hoại kinh khủng, là ấu trĩ, là làm tổn thương và chống lại xã hội. Nhưng một trong những kinh nghiệm khích lệ nhất đối với tôi là được làm việc với những cá nhân đó và khám phá ra những khuynh hướng tích cực mạnh mẽ ở nơi họ cũng như trong tất cả chúng ta ở những bề diện thâm sâu nhất.

7b.

Tôi xin kết thúc bằng một điều học hỏi sau cùng như thế này: Ở khía cạnh tích cực nhất, cuộc sống là một tiến trình luôn trôi chảy và thay đổi, trong đó không có gì là cố định. Ở trong tôi cũng như ở các thân chủ của tôi, cuộc sống phong phú nhất là khi nó là một tiến trình đang trôi chảy. Kinh nghiệm điều này vừa làm cho say mê mà cũng làm cho ta lo sợ. Tôi nhận thấy tôi được sung mãn nhất là khi tôi để cho dòng suối kinh nghiệm lôi cuốn tôi theo chiều hướng đi lên, tiến tới những mục đích mà tôi mới chỉ ý thức lờ mờ. Để mình trôi đi như vậy với dòng suối kinh nghiệm và cố gắng tìm hiểu tính cách phức tạp luôn luôn thay đổi của nó sẽ cho ta thấy rõ rệt là không có điểm cố định nào. Do đó, khi tôi có thể ở trong một tiến trình như vậy, tôi thấy rõ là không thể có trong tôi một hệ thống đã hoàn tất về niềm tin hoặc những nguyên tắc bất di bất dịch. Đời sống được hướng dẫn bằng sự hiểu biết và giải thích luôn thay đổi của kinh nghiệm trong tôi. Nghĩa là cuộc sống luôn luôn đang trong tiến trình hình thành.

Vì thế tôi nhận thấy rõ là tôi không thể khuyến khích hay thuyết phục người khác tin theo một thứ triết lý, hoặc niềm tin hay nguyên tắc nào. Tôi chỉ có thể cố gắng sống theo sự giải thích ý nghĩa hiện tại của kinh nghiệm tôi, và cố gắng cho người khác được quyền và tự do để phát triển cái tự do nội tâm của họ, và từ đó, tìm được sự giải thích có ý nghĩa cho kinh nghiệm riêng của họ.

Nếu có một điều được gọi là chân lý, thì tôi tin rằng tiến trình tìm kiếm cá nhân trên đây phải nhằm hướng đó. Và đây cũng là điều tôi đã kinh nghiệm trong một phạm vi giới hạn.

(hết chương 1)

– – – – –

MỤC LỤC:

Chg 0. Lời giới thiệu

Chg 1:  “TÔI LÀ AI?” Sự phát triển tư tưởng nghề nghiệp và triết lý cá nhân của tôi

PHẦN I – L‎ý thuyết về tâm lý trị liệu và sự trưởng thành con người

Chg 2. Giả thuyết về các việc làm giúp cho con người trưởng thành

Chg 3. Những đặc tính của liên hệ trị liệu

Chg 4. Chúng ta biết gì về tâm trị liệu dưới khía cạnh khách quan và chủ quan

Chg 5. vài chiểu hướng rõ rệt trong trị liệu

Chg 6. Thành nhân có nghĩa là gì?

Chg 7. “Sống con người thật của mình”một quan điểm của nhà trị liệu về mục tiêu cá nhân

Chg 8. Quan điềm của một nhà trị liệu về đời sống đẹp: Con người sống tràn đầy

PHẦN II – Ứng dụng vào những lãnh vực khác nhau của đời sống

Chg 9. Dạy và học – Những suy tư riêng

Chg 10. Sự học hỏi thực sự trong trị liệu và trong giáo dục

Chg 11. Những liên quan của thân chủ trọng tâm trị liệu với đời sống gia đình

Chg 12. Đương đầu với những trục trặc trong truyền thông giữa người-người và nhóm-nhóm

Chg 13. Thử phát biểu một định luật khái quát về sự tương giao giữa người với người

Chg 14. Tiến tới một lý thuyết về sáng tạo

– – – – –

Read Full Post »