Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘08. Ba trường hợp…’ Category

Chương 08:

TÓM TẮT LỊCH SỬ BA TRƯỜNG HỢP

– – –

Lịch sử các ca bệnh do Freud soạn là những tài liệu độc nhất trong tâm bệnh học lâm sàng; ngày cả trong lịch sử y học nữa, chúng cũng đánh dấu một giai đoạn còn độc đáo hơn. Trước kia, chưa bao giờ những đau khổ gắn với thân phận con người lại được viết bằng những lời lẽ sâu kín đến thế, thấu hiểu đến thế về mặt lâm sàng. Từ khoảng mươi mười hai ca được thuật lại chi tiết, có năm ca nói chung được coi là quan trọng nhất. Hai trong số năm ca này bàn về các bệnh loạn tâm như: gần như chắc chắn đó là những biến thế của chứng phân liệt, theo sự mô tả của Freud. Chúng tôi sẽ thuật lại vắn tắt ở đây ba ca kia: lần lượt đó là một ca hystêri, một trạng thái lo sợ (angoisse phobique) và một ca nhiễu tâm ám ảnh thúc ép.

Ca Dora

Đó là ca đầu tiên được Freud công bố sau tác phẩm của ông, với sự cộng tác của Breuer; tiêu đề đầy đủ của ca này là Một mẩu phân tích về hystêri (Fragment d’une analyse d’hystêri). Tiêu đề ban đầu của nó là Các giấc mơ và hystêri (Rêves et Hystérie), với mục đích chứng minh vai trò của các giấc mơ trong sự phân tích hystêri. Lịch sử của ca này cũng chỉ xoay quanh hai giấc mơ do một nữ bệnh nhân thuật lại và được phân tích tỉ mỉ.

Freud đã ngần ngại ít lâu trước khi công bố ca này. Lúc đầu, ông trao cho nhà xuất bản vào năm 1901, nhưng lại rút bản thảo về và giữ nó thêm bốn năm nữa, trước khi quyết định cuối cùng để cho nó đến với công chúng chuyên nghiệp mà nó được dành cho họ.

Trong ca Dora, bệnh nhân đầu tiên lại là bố cô, người được Freud chữa bệnh giang mai. Bốn năm sau khi khỏi bệnh, bệnh nhân này đưa con gái mình đến với Freud, ông chấp nhận tiến hành trị liệu tâm lý cho cô. Hồi đó, cô đã từ chối việc chữa bệnh. Nhưng hai năm sau, cô tự mình trở lại, việc chữa trị được thực hiện và kéo dài ba tháng, sau đó Dora ngừng chữa bệnh và biến mất khỏi tầm tay (*) Freud.

Lúc mới chữa trị, Dora mười tám tuổi; cô là em trong hai người con, người kia là anh cô, mười chín tuổi rưỡi. Ông bố thì đã gần năm mươi, còn bà mẹ ít hơn ông một hay hai tuổi gì đó. Bà được Freud mô tả như một người đàn bà hoàn toàn bận bịu với những công việc nội trợ tỉ mỉ, khiến bà không có thì giờ để có những liên hệ cá nhân với gia đình. Vào lúc đó, những triệu chứng của Dora có rất nhiều và rất khác nhau; phần lớn những triệu chứng ấy đã có nhiều năm, một số thậm chí đã có từ hơn nửa đời của cô rồi. Freud coi đó là những triệu chứng cổ điển của hystêri; những khó khăn khi đọc, mất tiếng, đôi khi mất liền vài tuần lễ, những cơn đau nửa đầu, trầm nhược, gây hấn hystêri kèm theo một sự rút lui khỏi các địa vị xã hội, ý nghĩ tự sát để trừng phạt gia đình vì không hiểu mình, cũng như chán ngấy cuộc sống nói chung.

Trong tiến trình phân tích, Freud được biết từ Dora là bố cô đã có quan hệ với vợ một người hàng xóm. Ông này, M.K, cũng đã từng gạ gẫm Dora về mặt tính dục, đề nghị cưới cô làm vợ nếu bố cô ly hôn để lấy vợ ông ta. Bệnh của Dora nảy sinh vì cô yêu bố mình, vì mối xung đột do những đề nghị của người hàng xóm gây ra và vì cô tự đồng nhất với vợ người hàng xóm kia, một người đàn bà nồng nhiệt hơn mẹ của Dora nhiều. Thế là tất cả những điều đó có liên quan với hoàn cảnh gia đình của nữ bệnh nhân, một hoàn cảnh xung đột Œdipe thật căn bản và cổ điển. Nhưng ban đầu Freud lại chưa thấy hiện tượng ấy chỉ sau này ông mới khám phá ra tầm quan trọng hàng đầu của nó. Dora chữa trong ba tháng, sau đó cô ngừng lại mà không giải thích tại sao. Mười lăm tháng sau, cô trở lại khám một lần duy nhất, cho biết rằng các triệu chứng của mình đã khá hơn nhiều, tuy rằng thật ra còn lâu cô mới hoàn toàn khỏi bệnh.

Trong kết luận bản báo cáo, Freud thẳng thắn xem xét thất bại của mình về việc phân tích tình huống trẻ con ban đầu của Dora cũng như về sự chuyển dịch giữa Dora và chính ông, một sự chuyển dịch chắc chắn có thể đóng một vai trò quan trọng trong sự giảm bớt căn bệnh lúc mới chữa trị, cũng như trong việc nữ bệnh nhân từ bỏ Freud và sự chữa trị của ông. Khi nhìn trở lại, Freud cho rằng sự giảm bớt ấy hoàn toàn là do một sự chuyển dịch không được phân tích, rằng những bài học chính mà ông phải rút ra từ ca này là khả năng tiếp cận những chất liệu năng động của sự liên tưởng tự do ở các bệnh nhân hystêri, đặc biệt là sự liên tưởng tự do của các giấc mơ của họ, cũng như sự thiếu thận trọng của ông khi coi sự giảm bớt về triệu chứng, “sự trốn chạy vào sức khỏe”, như một bằng chứng khỏi bệnh nhiễu tâm.

Ca này có một kết cục lý thú. Nhiều năm sau, vào năm 1922, Dora đến khám một nhà phân tâm học khác, làn này là bác sĩ Felix Deutsch, nhà thực hành ở Viên và là môn đồ của Freud. Sau khi Dora chết, bác sĩ Deutsch công bố kinh nghiệm của mình về ca cũ này. Ông cũng xác nhận sự lý giải và những tiên đoán của Freud về bệnh nhân này ở nhiều điểm. Nữ bệnh nhân này chưa bao giờ thắng vượt được hẳn xung đột Œdipe còn giữ nguyên của mình, cũng chưa bao giờ khắc phục được những hậu quả sau này của sự xung đột đó, được gây ra bởi những gì mà cô đã lý giải một cách vô thức như những ý đồ loạn luân của M.K, chứ không phải như sự đồng nhất riêng và mạnh mẽ của cô với người vợ của M.K., người mà bố cô có quan hệ. Chính bản thân cô vẫn bị lãnh cảm, vừa chán hôn nhân lại vừa chán những liên hệ tính dục khác giới nói chúng. Cô là một ví dụ không may về tính sáng suốt của những công trình đầu tiên của Freud, cũng như về những hậu quả trị liệu không thuyết phục được mấy.

Ca bé Hans

Xét theo lý thuyết chung của phân tâm học, ca này là đáng ngạc nhiên nhất trong tất cả những công trình được công bố của Freud. Nó được công bố năm 1909, dưới vẻ một nghiên cứu nhan đề Phân tích chứng sợ ở một đứa con trai năm tuổi. Bé Hans là một đứa trẻ rất sợ phải ra khỏi nhà, lấy cớ là sợ bị một con ngựa cắn. Bố của Hans, rất tin vào Freud và các lý thuyết của ông, đã nhờ Freud xem xét ca này, nhưng không đưa con trai mình đến gặp ông. Freud khuyên người bố về cách chữa trị cho con, trong đó người bố gần như phải luôn luôn tham gia vào, điều đó tất nhiên có tác động sâu sắc vào chứng nhiễu tâm của con. Freud chỉ gặp đứa bé có một lần. Nhưng dường như chưa tìm thấy một cái gì thật nổi bật hồi đó cũng như sau này cả, tuy rằng điều đó trái ngược hiển nhiên với những lý thuyết tâm động của ông về ý nghĩa vô thức của liên hệ Œdipe, cơ sở của chứng sợ mà đứa trẻ đã bộc lộ cho người bố.

Đứa trẻ đã kể lại cho bố nó những nỗi sợ và những giấc mơ của nó, đặt ra những câu hỏi cho bố cũng như cho mẹ, vẽ những bức tranh để minh họa vấn đề của nó. Chuyện này bắt đầu từ khi Hans được ba năm rưỡi, sau khi đẻ em gái nó, một sự kiện khiến nó phải nghĩ tới nguồn gốc của những đứa bé, tới cách mẹ chúng đẻ ra chúng, tới các vai trò của bố và mẹ trong chuyện này. Đồng thời, đứa con cũng biểu lộ một mối quan tâm lớn tới dương vật của nó mà nó gọi là “cái tè”, cũng như tới dương vật của người khác, nhất là của bố, đồng thời cũng rất chú ý tới những con ngựa đực sau khi thấy rằng dương vật của chúng to khác thường.

Chứng sợ ngựa được mô tả như sản phẩm trực tiếp của tất cả các nhân tố ấy; Freud lý giải điều đó cho người bố theo mặc cảm Œdipe: vì nó có một dương vật to hơn của bé Hans, người bố sẽ đe dọa nó nếu nó thú nhận với bố là nó muốn chiếm mẹ cho một mình nó. Đặc quyền chiếm hữu ấy xuất phát từ người nào có dương vật to nhất, và vì ngựa có dương vật to hơn cả nên trở thành đối tượng chuyển dịch, nhờ đó mà những nỗi sợ của Hans về những ý định của bố nó đối với nó đã được chuyển dịch sang những con ngựa sẽ cắn nó nếu nó ra khỏi nhà. Sự bảo vệ mà Hans tìm kiếm chỉ được thực hiện một cách vô thức bởi nhiều nhân tố trong các giấc mơ. Không những nó ở trong nhà để tránh bị ngựa cắn, mà nó còn ở lại với mẹ chứ không đi ra với bố. (**)

Trên thực tế, bố mẹ đứa bé – tuy có thể là sáng suốt hơn phần lớn các bố mẹ ở Viên vào những năm đầu thế kỷ này nhiều – vẫn tiếp tục phạm phải phần lớn những lỗi chủ chốt đối với giả thuyết phân tâm học về những đe dọa của người lớn đưa tới những mặc cảm bị thiến hoạn của trẻ con. Mẹ bé Hans đã nói với nó rằng nếu nó cứ chơi “cái đi tè”, thì bà sẽ gọi bác sĩ tới để xẻo đi (***); còn bố bé Hans thì lại mắng nó vì đã chú ý quá nhiều tới “cái đi tè” – mà chính cậu đã thú nhận một cách ngây thơ – cho tới khi Freud gợi ý rằng rất có thể đó là một chủ đề cần được thảo luận giữa bố và cậu con trai. Nhưng ngay cả sau đó, bố vẫn không thể ngăn mình cãi nhau với mẹ và cuối cùng, đuổi cậu bé ra khỏi phòng, vì bố không tán thành mẹ quá yếu đuối, cứ để cho cậu bé nằm rốn ở giường mẹ vào sáng sớm.

Tuy có tất cả những thăng trầm ấy, bé Hans rồi cũng khỏi bệnh hoàn toàn; lúc đầu nó đã có thể theo mẹ, rồi sau đó theo bố đi dạo chơi, bất chấp những con ngựa gặp thấy. Hans thậm chí còn thảo luận thoải mái với bố về chuyện “cái đi tè”; mà sau đó Freud đã phỏng đoán rằng điều hoang tưởng ban đầu là việc bác sĩ cắt xẻo dương vật đứa bé do mẹ cắm vào óc nó lại may mắn biến thành một niềm tin được bố tán thành là trẻ con và “cái đi tè” sẽ lớn lên khi tới lúc; Tuy nhiên vai trò của người mẹ trong sự quan tâm này không bao giờ được hai bố con thảo luận cả.

Mười bốn năm sau, một chàng trai duyên dáng bước vào phòng làm việc của Freud và nói: “Cháu là bé Hans đây ạ!” Anh ta mạnh khỏe trong cả thời gian ấy, đi theo con đường của bố, một nhạc công, và vì thế đã theo đuổi nghề âm nhạc. Theo những thông tin mà chúng tôi nắm được, từ đó anh ta sống một cuộc đời tương đối bình thường. Tuy nhiên, anh ta đã hoàn toàn quên đi trạng thái trước đây, không nhớ gì về những cuộc thảo luận chữa bệnh với bố, cũng như cuộc đến thăm Freud duy nhất của mình. Cuộc viếng thăm lần thứ hai là theo phép lịch sự, vì tên của Freud rất thường được nhắc tới trong gia đình.

Freud coi ca này có một tầm quan trọng độc nhất: lần đầu tiên, tính dục trẻ con đã được chứng minh rõ ở một đứa trẻ, thay vì được diễn dịch từ sự phân tích trở lại những giấc mơ và những ký ức người lớn. Freud nhận xét rằng ca này chẳng dạy thêm điều gì mới cho ông cả, nhưng nó xác nhận những gì Freud đã thử dạy cho mọi người. Bản thân ông không bao giờ tỏ ra một chút nhiệt tình nào với việc phân tích trẻ con, có thể vì ông dễ xúc động và một điều rõ ràng là trong ca duy nhất mà ông trực tiếp chịu trách nhiệm ấy, sự tham gia tích cực của ông trên thực tế bị thu hẹp ở mức tối thiểu, vì toàn bộ công việc chữa trị đã được thực hiện bởi nhân vật trung tâm của mặc cảm Œdipe ở đứa trẻ, đó là người bố của nó.

Ca một người bị tra tấn bằng chuột

Ca này được kể lại dưới nhan đề ban đầu là Những nhận xét về một ca nhiễu tâm ám ảnh. Khi công bố ca này, Freud nhằm mục đích chính là để minh họa các cơ chế chuyển dịch và tính dục ác dâm-hậu môn mà ông đoán là nằm bên dưới phần lớn các ca nhiễu tâm ám ảnh. Văn bản ấy làm cho hình thức và những cơ sở của ca này trở thành rất sáng rõ.

Đây là bản thuật lại một cuộc phân tích trọn vẹn và thành công, kéo dài mười một tháng trời. Bệnh nhân giảm được những triệu chứng của mình và, cho tới lúc chết trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vẫn luôn luôn khỏe mạnh. Tên gọi thường được đặt cho ca này bắt nguồn từ nỗi sợ ám ảnh trung tâm mà bệnh nhân vẫn than phiền. Nó có liên quan với một kiểu tra tấn khủng khiếp mà một đồng nghiệp sĩ quan cùng tập luyện với anh ta đã kể như một hình thức trừng phạt đôi khi được áp dụng ở phương Đông. Nạn nhân bị trói lại, một chiếc bình đựng chuột được đặt dốc ngược xuống mông anh ta; chuột chỉ còn có cách gặm thành một đường đi qua hậu môn nạn nhân mà thôi. Bệnh nhân liền thấy ý tưởng đó quá kỳ quặc, tởm lợm nhưng lại hấp dẫn, điều đó khiến anh ta công phẫn.

Trong những lần tập mà người ta đã kể lại giai thoại đáng lo ngại ấy cho anh ta nghe, anh ta cũng đang bị mất kính. Anh ta đánh điện với Viên để người bán kính gửi cho mình một đôi kính khác; anh ta nghe được câu chuyện trừng phạt bằng chuột vừa được kể này chính là giữa khi anh ta mất kính rồi nhận được kính. Anh ta chợt nghĩ rằng nếu anh ta không thi hành một chương trình thật rắc rối về hành động và suy nghĩ có tính toán để tránh một thảm họa thuộc loại này, thì kiểu trừng phạt ấy sẽ trút lên đầu hai người thân thiết nhất của anh ta: người bố và người vợ mà anh thương yêu. Thật ra, bố anh ta đã chết từ nhiều năm rồi; còn người vợ anh ta yêu thương thì anh ta không thể tin rằng cô ta đang gặp nguy hiểm. Tuy nhiên, điều đó không hề làm thay đổi chút nào ám ảnh của anh ta về chuyện đó, cũng không hề làm thay đổi gì những hành động chuộc tội mà anh ta tự cảm thấy mình bắt buộc phải làm.

Khi đọc lại bản tường thuật của Freud về những lần gặp gỡ đầu tiên với người đàn ông trẻ tuổi đặc sắc ấy, người ta có ấn tượng rất mạnh về sự bối rối của chính nhà phân tâm học trước chương trình rời rạc ấy, tuy được trình bày tỉ mỉ nhưng lại hoàn toàn lộn xộn, do bệnh nhân ấy nghĩ ra. Chương trình này bao gồm việc trả tiền cho một sĩ quan nào đó về đôi kính được gửi tới ở một làng nằm không xa hành dinh tập trận; bệnh nhân thì tin chắc rằng dù mình đã thật sự trả tiền cho người sĩ quan kia rồi, thì chắc chắn bố mình cũng như vợ mình vẫn sẽ bị trừng phạt; sau đó anh ta tin rằng số phận của họ cũng sẽ như thế nếu anh ta không trả tiền, nên nó trở thành quyết định.

Phần đầu câu chuyện này là một sự tường thuật phức tạp về những chuyến đi, những sự giải quyết và chống giải quyết, những sự không giải quyết bao quanh tất cả mọi hoạt động của bệnh nhân; chẳng hạn, việc kết hợp chuyện anh ta sẽ trả tiền cho viên sĩ quan kia với chuyện viên sĩ quan kia tưởng rằng anh ta đã thanh toán tiền đó rồi; rồi việc phát hiện ra rằng viên sĩ quan kia chẳng có liên quan gì trong chuyện mua bán này; hoặc niềm hy vọng cùng với một viên sĩ quan khác chịu trách nhiệm phân phát bưu phẩm trong trung đoàn đến trụ sở bưu điện, ở đó anh ta trả tiền cho một nữ nhân viên thu chi trẻ tuổi, rồi cô này lại đưa tiền ấy lại cho viên sĩ quan thứ hai mà bệnh nhân tưởng rằng anh ta đã đưa nó cho cô nhân viên này rồi, còn bản thân mình thì lại trả tiền cho viên sĩ quan thứ nhất để giữ lời hứa của mình.

Trong khi nghe kể lại diễn biến câu chuyện này, cả ba – người đọc, Freud và bệnh nhân – đều rối tung cả đầu lên. Chính Freud đã nhận xét rằng không thể nào gỡ rối được hết câu chuyện do bệnh nhân kể lại, và minh họa những gì ông đã thử làm; ấn tượng chung là ấn tượng về một sự lộn xộn ám ảnh, trong đó tất cả những người tham gia đều bị lẫn vào nhau một cách rối rắm.

Cuối cùng, nó trở thành một câu chuyện, trẻ con và tính dục cũ về việc khám phá các cơ quan sinh dục của một bà bảo mẫu, về những nghi ngờ đối với căn tính tính dục, những băn khoăn về người bố bệnh nhân, bản thân bệnh nhân và những người phụ nữ. Freud nhận thấy rằng viên sĩ quan kia rõ ràng cảm thấy “một nỗi khủng khiếp vô thức về khoái cảm” do toàn bộ sự cố trung tâm gây ra: sự hiểu biết về cách tra tấn phương Đông.

Việc phân tích cho thấy rằng bệnh nhân từ hồi còn nhỏ đã có những ý nghĩ, những sợ hãi và những nghi thức ám ảnh thuộc những loại khác nhau, mà sự kiện quyết định khiến anh ta đến khám bệnh ở Freud chỉ là đỉnh cao của những tình cảm mạnh dần lên ấy, để cuối cùng phát triển thành một trạng thái khủng khiếp, lẫn lộn và chán chường hoàn toàn, kèm theo những ý nghĩ và hành động nghi thức tăng lên rất mạnh, sau câu chuyện do viên sĩ quan đồng nghiệp kia để lại. Qua diễn biến từ đầu đến cuối của việc phân tích, người ta gặp thấy vô số ví dụ về những do dự đặc trưng của bệnh nhân, và về sự xóa bỏ những quyết định riêng của anh ta. Chẳng hạn, một hôm người vợ mà anh ta yêu thương phải rời khỏi một thành phố nào đó, anh ta đi theo con đường có chiếc xe người vợ vừa đi để ra ga, và nhìn thấy một hòn đá trên đường. Anh ta liền thấy mình phải gạt hòn đá đi, sợ rằng bánh xe vấp phải nó sẽ làm đổ chiếc xe và làm bị thương người vợ. Ngay khi vừa gạt hòn đá đi, anh ta vẫn chưa yên tâm vì sợ mình đặt hòn đá ấy vào một chỗ còn nguy hiểm hơn nữa, hoặc sợ việc gạt hòn đá ấy có thể gây ra một tai họa khác. Thế là anh ta lại buộc phải đặt hòn đá kia vào chỗ cũ. Bệnh nhân thường xuyên phạm vào những hành động thuộc loại đó, cứ làm xong những hành động đòi hỏi phải thận trọng hay để đền tội lại bỏ đi.

Chúng tôi có thể đưa ra hai ví dụ khác nữa do câu chuyện ca này nêu lên. Ví dụ thứ nhất là những mưu toan tự sát của bệnh nhân mà anh ta phải từ bỏ bằng một nỗ lực tinh thần mạnh mẽ. Bệnh nhân cho Freud biết rằng một lần, anh ta đã mất nhiều tuần lễ học hành vì người yêu của anh ta đi chăm sóc người bà ốm nặng. Khi người yêu vắng mặt, anh ta học rất nhiều với ý nghĩ đến trong đầu mình:

“Hãy thi lần nữa, nếu mày được lệnh thi vào một kỳ thi gần nhất. Nhưng mày sẽ làm gì khi trong đầu mày nảy ra cái lệnh bắt mày phải tự cứa cổ bằng lưỡi dao cạo? Tôi hiểu ngay rằng lệnh đó vừa mới có hiệu lực, nên tôi vội vàng đến cái tủ để lấy lưỡi dao cạo, nhưng tôi lại nghĩ: Không, thế thì quá đơn giản; nào, hãy đi giết chết bà già kia đi”. (60)

Freud nêu lên những gì xảy ra, đó là sự oán giận của bệnh nhân đối với bà già đang ốm đã thúc đẩy anh ta trước tiên tới chỗ muốn cho bà chết, sau đó tới chỗ tưởng tượng ra rằng anh ta có ý đồ giết bà, và cuối cùng cho rằng bản thân anh ta cũng đáng tự sát vì những ham muốn dã man và giết người như thế. Nhưng trong ý thức của bệnh nhân, những ý nghĩ này thật ra chỉ hiện lên theo thứ tự đảo ngược và ít rõ ràng hơn nhiều.

Ví dụ thứ hai là về những di chuyển, những sắp xếp phức tạp chung quanh việc trả tiền đôi kính thứ hai gửi đến nhà bưu điện khi bệnh nhân đang tập luyện. Cuối cùng, anh ta thừa nhận mình thấy thích cô nhân viên thu chi kia, một người có thể dễ gần hơn người vợ yêu thương của anh ta, một người xa cách và đôi khi tính khí thất thường. Kinh nghiệm xưa nhất của anh ta về mặt tính dục đã làm cho anh ta vừa ghen tuông vừa muốn biết nhiều hơn về những bí ẩn của thân thể và về tính khí đàn bà; và từ hồi đó anh ta cảm thấy mình bị phản bội,bị hụt hẫng về mặt này. Tất nhiên, bố anh ta hiện lên như một tượng trưng cho sự ngăn cách giữa một bên là tuổi trẻ và sự thiếu kinh nghiệm của anh ta và một bên khác, là sự trưởng thành và sự tự tin mà anh ta mong muốn nhưng không thể đạt tới được. Đó là lẽ tại sao người bố bị đặt vào sự trừng phạt quá đáng này, khiến cho ý thức về sự phạm tội của bệnh nhân không ngừng thúc đẩy anh ta tới chỗ cố gắng tránh khỏi nó.

Toàn bộ câu chuyện ca này đầy rẫy những ví dụ có thể lấy từ những ca nhiễu tâm ám ảnh mà bất cứ thầy thuốc nào cũng có thể gặp thấy trong thực tiễn lâm sàng của mình. Bệnh nhân cảm thấy những định kiến tính dục cũ nhất của mình vừa dễ chịu vừa hành hạ mình, nhưng cũng sinh ra những lo hãi và hẫng hụt liên tục; ngay từ những lần cương cứng đầu tiên, anh ta đã phản ứng bằng cách than phiền với mẹ mình. Anh ta tự hỏi xem điều đó có cần thiết không, vì anh ta đã mang trong đầu ý nghĩ bệnh hoạn cho rằng bố mẹ anh ta biết hết tất cả mọi ý nghĩ của anh ta, một ý nghĩ mà anh ta chỉ thể tự giải thích được bằng cách giả định là anh ta đã diễn đạt chúng rất rõ ràng nhưng lại không biết mình làm như vậy.

Chúng ta chọn ba ca trong số mười một ca dài nhất được Freud công bố, vì chúng minh họa cho ba mặt của sự phân tích một chứng nhiễu tâm chuyển dịch; những ca khác cũng cần thiết, nhưng có thể đọc chúng trong nguyên bản. Ca được mô tả mạnh nhất là ca Một người trong vòng vây của chó sói, gọi theo một giấc mơ được ông kể lại, trong đó bệnh nhân thấy đầy những con sói xung quanh một cây to trước cửa sổ buồng ngủ của mình, mà anh ta rất sợ chúng.

Việc Freud tiến hành phân tích những ký ức của trẻ con của bệnh nhân này đã đưa tới chỗ anh ta cũng như thầy thuốc của anh ta sực nhớ ngay tới cảnh tượng ban đầu: đó là cách diễn đạt của Freud nhằm nói tới việc một đứa trẻ tham dự vào hành vi tính dục.

Ngay trước khi đạt tới cái điểm mà ở đó, với một thái độ vô cùng thận trọng, Freud chú ý tới kinh nghiệm thị giác không chắc chắn lắm của một bệnh nhân khoảng tám tuổi, ông nhận xét:

“Tôi đã đạt tới cái điểm mà tôi phải từ bỏ chỗ dựa của mình khi tiến hành phân tích cho đến nay. Tôi sợ rằng đó cũng là cái điểm mà ở đó bạn đọc không còn tin tôi nữa”. (61)

Đọc tất cả những câu chuyện về các ca do Freud soạn, có thể thấy rằng những nét nổi bật nhất của chúng là trí nhớ xuất sắc rất tỉ mỉ của ông, cũng như năng lực xử lý đầy đủ tất cả những sự phức tạp của mỗi ca, bằng cách dựa vào những giả thuyết khác nhau được nêu ra khi trình bày. Không một nhà phân tâm học nào sánh được với tài năng đặc biệt ấy; nhưng thật khó có một ai khác ngoài nhà sáng lập phân tâm học ấy lại có thể sử dụng sự phong phú rộng lớn của những chi tiết thu được trong các câu chuyện ấy đến thế. Kết quả thật đối nghịch mặc dầu Freud có thể viết ra một cách sắc sảo và sáng sủa như vậy, nhưng ông vẫn đặt cho những người đọc của mình một nhiệm vụ quá nặng nề. Người ta rất muốn bỏ qua nhiều đoạn hoặc cố thử hệ thống hóa chúng; nhưng không thể không thừa nhận tính chất dễ gây mệt mỏi, cũng như sự vất vả ghê gớm gắn liền với phương pháp độc đáo của phân tâm học. Người ta sẽ không thu được cái lợi gì khi trích dẫn chi tiết ca Một người trong vòng vây của chó sói cũng như những ca khác. Nhưng một lần nữa, bạn đọc nào muốn có được một ý niệm mà người ta có thể gọi đó là thực chất thuần túy của sự mô tả lâm sàng, của sự qui nạp, diễn dịch và của sự trình bày theo kiểu Freud, thì không có gì tốt hơn là tham khảo những câu chuyện độc đáo về các ca do Freud biên soạn, và khám phá ra ở đó cho bản thân mình xem tiếng kêu lo hãi do tác giả thốt lên và đã được dẫn ra trên đây có làm xúc động trái tim và trí tưởng tượng của mình không, hay đó chỉ là tiếng vang của tính hoài nghi khủng khiếp của mình. Freud đã sẵn sàng chấp nhận hai cách phản ứng ấy, và cách nào ông cũng dung thứ.

– – – – –

Chú thích:

(*) Nguyên văn: phạm vi (horizon). – (Biên Tập)

(**) Nhưng cũng phải nói thêm rằng chứng sợ của bé Hans đối với những con ngựa đã chấp nhận một sự giải thích đơn giản hơn phần nào, mà chính cậu bé đưa ra trước khi nghe thấy bố nó và Freud nói tới nhiều lần trong cuộc gặp nhau duy nhất của cả ba, nhưng lại bị coi đó là “những điều vớ vẩn”. Đứa bé tự nó giải thích rằng nó sợ những con ngựa từ lúc nó nghe nói những con vật này có thể cắn, và từ lúc nó nhìn thấy một đôi ngựa lớn thắng vào một chiếc xe hàng bị ngã và giãy giụa ở ngoài phố.

Ca này đáng được đọc theo nguyên bản vì sự phát triển song song trong câu chuyện giữa sự chú ý hiển nhiên của cậu bé tới sự phát triển tính dục của nó cũng như của những người khác, và việc nó sợ ngựa sau đó. Nhưng mối liên hệ nhân quả được coi là có giữa mặt này và mặt khác, khi xem xét kỹ, chỉ là kết quả của một sự lý giải hay một sự khẳng định của Freud hay người bố đưa ra, và đôi khi cũng chỉ là một sự khẳng định không có bằng chứng gì hết. Đó là đề tài của một sự phê phán do hai tác giả đương thời, Joseph Wolpe và Stanley Rachman, đưa ra (Journal des maladies nerveuses et mantales, vol. 130, no 8, tháng tám 1960.)

(***) Trích cuộc trò chuyện này, do Freud kể lại:

“Mẹ. Nếu con cứ làm thế, mẹ sẽ gọi bác sĩ A tới…để cắt “cái đi tè” này đi cho mà xem. Thế rồi con đi tè bằng cái gì nào?

Hans. – Bằng cái váy xòe của con”.

Người ta có thể thấy rằng Hans là một đứa trẻ dũng cảm và đầy tháo vát.

Sau đó lại xẩy ra một cuộc trao đổi khác nữa giữa mẹ và con, trong khi nó “nhìn chằm chằm vào mẹ đang cởi áo ra”.

“Mẹ – Con nhìn cái gì vậy?

Hans. – Con chỉ nhìn xem mẹ có “cái đi tè” không.

Mẹ. – Tất nhiên là có. Con không biết thế à?

Hans. – Không ạ, con tưởng rằng vì mẹ lớn nên mẹ phải có “cái đi tè” to bằng của con ngựa kia.” (58)

Người ta thường cho rằng trong ví dụ này, mẹ bé Hans đã làm một việc mà đối với cậu ta là ngang với một sự dối trá có chủ định, có tính phòng vệ. Điều đó chỉ đúng khi giả định rằng cả hai đều nói tới việc có một dương vật. Nếu ngôn ngữ chung của hai mẹ con thật ra chỉ liên quan với phương tiện đi đái, thì họ có thể hiểu nhau tốt hơn Freud hay bố hiểu nhau. Trong ca này, khả năng ấy không xuất hiện ở đâu cả.

Tài liệu tham khảo:

58. Le Moi et le Ca, 1923-1925, S.E, vol. XIX, p. 152

59. Cinq psychanalyses, P.U.F, pp. 95-96

60. Cinq psychanalyses, P.U.F, pp. 220

61. Cinq psychanalyses, P.U.F, p. 349

đến chương 09 >>

Read Full Post »