Chương 2:
“NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ HYSTÊRI”
VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẦU TIÊN
* * *
Lúc đầu, Freud không có ý định trở thành nhà thực hành, càng không có ý định trở thành nhà chữa trị tâm lý. Thời nhỏ, ông thích tưởng tượng mình dưới dạng vẻ một viên tướng to hay một chính khách lớn: Annibal (*) là một trong những anh hùng ưa thích của ông. Về sau, khoa học thu hút ông như con đường chắc chắn đi tới quyền năng thật sự và tới sự thông hiểu thật sự dành cho con người toàn vẹn, và đối với ông, y học chính là sự phối hợp khả năng áp dụng những tri thức khoa học của mình với sự theo đuổi những lợi ích cá nhân. Tuy nhiên, cuối cùng ông không chuyên tâm được vào việc thực hành y học lâm sàng vì những lý do tài chính, một phần vì những công trình nghiên cứu mà ông tỏ ra rất có năng lực để làm lại không thể mang cho ông một sự tiến thân nào đó, một phần vì, giống như nhiều người trẻ tuổi thời ông và tất cả những người khác, ông đã yêu, muốn lấy vợ và cần có nhiều tiền hơn mức kiếm được.
Breuer đã giúp đỡ Freud, không chỉ bằng những khuyến khích và những ý kiến, mà cả bằng tiền bạc. Hai người thầy thuốc này cũng chia sẻ kinh nghiệm với nhau; Breuer chuyển một vài bệnh nhân của mình cho Freud cho đến lúc cả hai người cùng dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu các trường hợp hystêri, và quyết định coi những khám phá của họ là của chung để công bố. Đó là buổi đầu lịch sử của phân tâm học; do đó thật thú vị khi xem xét những ý kiến của Freud trong việc công bố chung đầu tiên và duy nhất ấy. Đây là một đoạn tán rộng ra có tính chất cá nhân của Freud khi bàn về một số ca do ông mô tả trong tác phẩm:
“Tôi chưa bao giờ là thầy chữa trị tâm lý cả. Giống như những nhà thần kinh học khác, tôi quen dựa vào những chẩn đoán tại chỗ và lập ra các dự báo bằng cách dùng liệu pháp điện, chính vì thế tôi thật kinh ngạc khi thấy những quan sát của tôi về người bệnh được đọc như những tiểu thuyết và có thể nói là chẳng mang dấu ấn nghiêm túc như những bài viết của các nhà bác học. Tôi tự an ủi bằng cách thẩm nhủ rằng tình hình ấy rõ ràng có thể gán cho chính bản thân của vấn đề được bàn, mà không phải là dó sự lựa chọn riêng của tôi. Việc chẩn đoán bằng cách định vị những phản ứng điện không quan trọng mấy khi nghiên cứu về hystêri, còn một bản trình bày chi tiết về các quá trình tâm thần, như người ta thường quen thấy ở các nhà tiểu thuyết, cho phép tôi có được một vài ý niệm về diển biến của một chứng hystêri, bằng cách chỉ dùng một ít công thức tâm lý học. Những loại quan sát ấy phải được phán xét như những quan sát thuộc loại tâm bệnh học, nhưng có một ưu thế: mối quan hệ chặt chẽ giữa lịch sử bệnh và những triệu chứng bệnh mà chúng ta đi tìm một cách vô ích trong tiểu sử những chứng loạn tâm khác”. (6)
Hai tác giả kể lại việc họ đã làm thế nào để phát hiện ra rằng mọi kinh nghiệm có thể gây ra những cảm giác trầm nhược – như sợ hãi, lo âu, xấu hổ hay đau đớn thể chất – có thể làm khởi phát những triệu chứng hystêri. Việc loại khởi phát này thật sự đưa tới kết luận rằng chứng hystêri phụ thuộc:
“… một cách rõ ràng vào tính nhạy cảm của người bệnh được xem xét (cũng như vào những nhân tố chúng tôi sẽ nói dưới đây)… Trong chứng hystêri thông thường, thường xảy ra tình hình là không có một tác động gây chấn thương duy nhất nào, mà có nhiều chấn thương bộ phận, nhiều lý do nhóm lại”. (7) Từ Hy Lạp trauma, nghĩa đen là vết thương, hồi đó được dùng thường xuyên để chỉ sự căng thẳng do hystêri gây ra.
“Nhưng về mối liên hệ nhân quả giữa chấn thương tâm thần thúc đẩy (traumatisme psychique motivant) và hiện tượng hystêri, thì không được tưởng rằng chấn thương tác động theo lối một agent provocateur (**) (tác nhân gây sự) làm phát ra triệu chứng. Triệu chứng, khi đã trở thành độc lập, sau đó vẫn tồn tại. Đúng hơn, phải nói rằng chấn thương tâm thần và, sau đó, ký ức về nó, tác động theo lối một thể lạ mà sau khi đã phát ra rất lâu vẫn còn đóng một vai trò tích cực. Một bằng chứng của điều này là do một hiện tượng cực kỳ lạ lùng và hoàn hảo đưa lại để làm cho những khám phá của chúng tôi có một tầm quan trọng thực tiễn.
Chúng tôi rất kinh ngạc khi thấy ra rằng, trên thực tế, mỗi triệu chứng hystêri biến mất ngay lập tức và không trở lại nữa, khi người ta hiểu rõ ký ức vê tác động khởi phát, đánh thức được mối xúc động gắn với ký ức đó và, sau đó, khi bệnh nhân mô tả được những gì đã xẩy ra với mình một cách thật chi tiết và diễn đạt được xúc cảm của mình bằng lời. Một ký ức không mang theo xúc cảm hầu như luôn luôn không có một chút hiệu quả nào”. (8) Thuật ngữ “xúc cảm” trong đoạn này được dùng theo nghĩa xúc cảm trong tâm bệnh học.
Hai tác giả đi tới kết luận rằng “không chỉ những căng thẳng gây sự ấy về căn bản có quan hệ nhân quả, bất kể chúng có trong ý thức hay không, mà cả những quá trình quyết định đã tạo ra chúng, tức là những xúc cảm, vẫn tiếp tục hoạt động theo lối này hay lối khác một cách vô hạn trong thời gian – không phải là gián tiếp nhờ những mắt xích trung gian, mà là trực tiếp với tư cách nguyên nhân khởi phát”. (9)
Tiếp đó là sự khẳng định: “Chính người hystêri khổ sở trước hết vì những điều sực nhớ lại”.
Việc giải thoát mối xúc cảm gắn liền với những nguyên nhân ấy được gọi là “giải tỏa” (abréaction); thật ra những gì xẩy ra trong những trường hợp được Breuer và Freud mô tả, đó chính là một sự giải tỏa khỏi những vật liệu xúc cảm quan trọng và bị vùi đã lâu, được gây ra do sự nới lỏng một chướng ngại nằm trong ý thức bình thường, mà sự thôi miên đã làm tiêu tan đi ít ra từng lúc. Đào sâu hơn ý tưởng này cũng như những hậu quả chung của những quan sát của mình, hai tác giả viết:
“Tuy vậy, “giải tỏa” không phải là cách tháo gỡ duy nhất mà cơ chế tâm thần của một cá nhân khỏe mạnh có thể có được, khi người đó bị một chấn thương tâm thần. Ký ức, ngay cả khi không được giải tỏa, nằm trong tổ hợp lớn của những liên tưởng, bên cạnh những tác động khác thậm chí có thể mâu thuẫn với nó, và được điều chỉnh bởi những biểu tượng khác. Sau một tai nạn chẳng hạn, thì ký ức về những gì diễn ra tiếp theo nó, như việc cứu nạn, và ý niệm về sự bảo hiểm hiện nay, sẽ gắn chặt với ký ức về mối nguy hiểm vừa xẩy ra, với sự lặp lại (có giảm bớt) nỗi khiếp sợ đã có. Ký ức về một sự nhục nhã được thay đổi bằng một sự cải chính các sự kiện, bằng một ý thức cá nhân về phẩm giá, v.v… Chính bằng cách đó mà con người bình thường dùng những hậu quả của sự liên tưởng để làm biến mất xúc cảm đi kèm theo.
Xin thêm vào đó một sự giảm bớt chung về những ấn tượng, một sự xóa nhòa các ký ức, tất cả những gì chúng ta gọi là “quên lãng” và tất cả những gì gặm nhấm những biểu tượng đã mất đi hiệu quả xúc cảm của chúng.
Những quan sát của chúng tôi cho thấy rằng, trong những ký ức, những cái nào đã gây ra sự xuất hiện của những hiện tượng hystêri thì thường giữ được sự tươi tắn đặc biệt và giá trị xúc cảm đầy đủ của chúng trong một thời gian dài. Nhưng cần phải nhấn mạnh, như một sự kiện nổi bật mà sau này sẽ có dịp dùng đến, rằng những ký ức ấy, trái với nhiều ký ức khác, không được giữ lại ở người hystêri. Hoàn toàn ngược lại, trí nhớ của các bệnh nhân không hề giữ lại một dấu vết nào của những tình tiết ấy hoặc chỉ giữ được chúng ở trạng thái sơ sài nhất. Chỉ bằng cách hỏi các bệnh nhân bị thôi miên thì những ký ức ấy mới lại trồi lên, với tất cả tính sống động của những sự kiện mới xẩy ra.”. (10)
Còn có những nhận xét khác có tính chất chung và dứt khoát nữa về những nghiên cứu chứa đầy tài liệu quan sát chi tiết, mà không cần xem xét ở đây, cũng đã được đưa vào hai lời tuyên bố đáng ghi nhớ khác, và một lần nữa chúng tôi xin dẫn ra đúng như đã được viết:
“Do đó, người ta có thể nói rằng nếu các biểu tượng trở thành những nhân tố gây bệnh vẫn giữ được hoàn toàn sự tươi tắn của chúng và luôn luôn chứa đầy xúc cảm, thì đó là vì chúng bị cấm hao mòn một cách bình thường do một sự giải tỏa và một sự tái hiện trong những trạng thái mà các liên tưởng không bị gây trở ngại”. (11)
Thật vậy, cái không thể nhớ lại được không phải là bị để lại đằng sau bản thân mình; đó là một ý tưởng mà chưa một tác phẩm khoa học nào nói lên trước đó, tuy rằng Wordsworth đã cảm thấy điều đó về mặt trực giác, như khi ông ám chỉ tới những “ý nghĩ quá sâu để không thể khóc được” (12). Shakespeare cũng vậy, hơn ba trăm năm mươi năm trước đó, đã đặt vào miệng Macbeth một yêu cầu khẩn khoản đối với một thầy thuốc hồi đó, một nhà chữa bệnh rất bất lực:
“Ông không thể chỉ dẫn gì cho tâm hồn đau khổ này,
Và nhổ bật nỗi buồn phiền khỏi trí nhớ của nó;
Không thể xóa đi những ưu tư khắc sâu và óc nó.
Và, bằng vài phương thuốc quên lãng dịu dàng,
Để trừ bỏ gánh nặng nguy hiểm đè nặng lên trái tim của nó trong lồng ngực,
Ông không thể làm gì được ư?” (13)
“Có thể, chúng ta có thể làm được điều đó”, Freud và Breuer đáp. Một câu trả lời chứa nhiều hy vọng hơn câu trả lời của người thầy thuốc kia cho Macbeth; nhưng khi điều đó xẩy ra, thì than ôi, câu trả lời ấy lại không được những kẻ nghe nó chấp nhận mấy, vì nó thay thế cho sự bất lực tuyệt đối bằng một trực giác gây đe dọa và nguy hiểm về bề ngoài. Hai tác giả cung cấp cái chìa khóa để hiểu luận điểm của họ như thế này:
“Bây giờ người ta biết rõ tại sao phương pháp chữa trị tâm lý mà chúng tôi vừa mô tả lại tác động có hiệu quả. Nếu xóa bỏ những hậu quả của cái biểu tượng không được giải tỏa lúc đầu, khiến cho xúc cảm do biểu tượng ấy gây ra trào lên bằng lời lẽ; nó đưa biểu tượng ấy đến chỗ thay đổi theo con đường liên tưởng, bằng cách thu hút nó vào cái ý thức bình thường (dưới sự thôi miên nhẹ) hoặc xóa bỏ nó bằng ám thị y học, giống như cách người ta xóa bỏ chứng mất trí nhớ trong trạng thái mộng du”. (14)
Để đánh giá đầy đủ lịch sử đích thực của các ca, cần đọc chúng thật chi tiết. Người ta sẽ thấy chúng luôn luôn chứng minh rằng diện mạo rất thường xuyên của các triệu chứng khi mới xuất hiện đồng thời tượng trưng cho bản chất của chấn thương quyết định, cũng như cho giải pháp thần diệu do chấn thương tinh thần của người bệnh tạo ra.
Một trong những nữ bệnh nhân của Freud là nạn nhân của những khủng hoảng nghiêm trọng do chứng đau thần kinh mặt gây ra, mà ông đã chữa trị theo những phương pháp qui ước nhiều lần khác nhau nhưng không có kết quả. Freud đã mô tả mối quan tâm của mình khi tìm hiểu xem điều đó có dựa trên một cơ sở tâm lý không.
Bằng thôi miên, Freud gợi ra cảnh gây chấn thương đã bị vùi sâu trong vô thức của người bệnh ấy; bà đã sống lại thời kỳ mà bà cảm thấy rất bực tức đối với chồng bà. Bà kể lại một cuộc trò chuyện với chồng cũng như một nhận xét của chồng, một nhận xét mà bà cảm thấy như một sự lăng nhục đau đớn. Bỗng bà đưa tay sờ má mình, kêu lên một tiếng đau đớn và nói: “Nó giống như một cái tát vào mặt tôi”. Điều đó đã làm chấm dứt đau đớn cũng như khủng hoảng, nhưng không phải đối với các chứng đau thần kinh. Cần phải làm cho bà nhớ lại những hoàn cảnh khác nữa, và cuối cùng Freud đã phải làm cho nữ bệnh nhân này nhớ lại cơn đau thần kinh đầu tiên, tức là cách lúc bà đến khám bệnh ở ông 15 năm trước đó. Ở đây, chẳng có một sự tượng trưng hóa nào, mà là cái ông gọi là:
“một sự chuyển hoán đồng thời; đó là một cảnh tượng nặng nề gây ra ở bà những cắn rứt và đẩy bà tới chỗ xua đuổi những liên tưởng khác. Như vậy, đó là một ca xung đột và tự vệ. Việc phát ra chứng đau thần kinh vào lúc đó là không thể giải thích được nếu người ta không chịu chấp nhận rằng nữ bệnh nhân ấy hồi đó bị đau răng hay đau mặt nhẹ, điều đó khó có thể có, vì hồi đó bà ở trong những tháng đầu lần có thai đầu tiên.
Vì thế, người ta giải thích rằng chứng đau thần kinh ấy, bằng con đường chuyển hoán thông thường, đã trở thành dấu hiệu của một sự rối loạn tâm lý nào đó…” (15)
Bản thân Freud hiểu rất rõ rằng sự cần thiết phải chấp nhận sự trùng hợp về thời gian của chứng đau thần kinh và của chấn thương lúc đầu đã làm cho ca này trở nên ít rõ ràng hơn về loại nguồn gốc thuần túy tâm lý, nhưng phần lớn những bằng chứng lâm sàng dường như lại cho thấy như vậy. Do đó, ông tiếp tục đưa ra những ví dụ mà ông cho rằng chúng có thể chứng minh sự đau đớn thể chất có thể chỉ nảy sinh từ sự tượng trưng hóa.
Một trong những ví dụ nổi bật là trường hợp một cô gái mười lăm tuổi nằm liệt giường dưới con mắt cảnh giác của bà cô ta, một người nghiêm khắc, bỗng thét lên một tiếng kêu đau đớn. Cô gái nằm mơ thấy mình bị đau nhức nhối ở vùng trán nằm giữa hai mắt, cơn đau ấy kéo dài nhiều tuần lễ và thỉnh thoảng lại xuất hiện trong 30 năm sau đó. Khi phân tích triệu chứng, nữ bệnh nhân này đã nhớ lại và nói cho Freud biết rằng hồi đó cứ mỗi lần bị bà mình nhìn một cách “xoi mói” là cô ta cảm thấy cái nhìn ấy như xuyên sâu thẳng vào óc mình. Thật ra, cô ta đã lo ngại vì người bà nghi ngờ mình. Khi xua được cơn sực nhớ lại ấy, cô ta đã cười lên được và cơn đau biến mất.
Tuy việc công bố công trình chung của họ tương đối thành công, nhưng Breuer và Freud không bao giờ hợp tác với nhau nữa. Người ta đã in lại thông báo ban đầu, nhưng sự quan tâm do nó gây ra không thật hoàn toàn thuận lợi. Từ sự công bố thông báo mở đầu ấy của Breuer và Freud năm 1893 đến sự công bố các lịch sử bệnh nhân sau đó, cũng như những nhận xét lý thuyết của nhiều tác giả, bản thân Freud chỉ đưa ra một thông báo nhan đề Các chứng nhiễu tâm tự vệ.
Trên thực tế, văn bản này không chỉ báo trước sự đoạn tuyệt với Breuer, mà còn là khởi đầu sự phát triển độc lập của khái niệm phân tâm học của riêng Freud. Mối bất đồng căn bản về quan điểm giữa hai tác giả này – mà sau đó Freud đã nhấn mạnh – là về vai trò của những xung lực tính dục trong bệnh căn của chứng hystêri. Nhưng cả ở đây nữa, sự bất đồng lúc đó vẫn chưa thật rõ rệt như người ta có thể chờ đợi. Việc Freud tin vào nguồn gốc tính dục của chứng hystêri xuất hiện rõ trong chương viết về liệu pháp tâm lý đối với chứng hystêri như một sự kết luận về các công trình nghiên cứu của ông. Rõ ràng đó là cống hiến riêng của ông, giống như chương trước đó là cống hiến riêng của Breuer. Tuy nhiên ở đây Freud chưa khẳng định, như sau này ông nhấn mạnh, rằng bệnh căn tính dục thấy có ở tất cả các ca hystêri một cách giống nhau. Trong chương riêng của mình, Breuer cũng nhấn mạnh tới vai trò quan trọng của tính dục trong các chứng nhiễu tâm, chẳng hạn khi ông viết rằng:
“bản năng tính dục chắc chắn là nguồn dồi dào nhất của những cơn kích thích kéo dài (và do đó, của các chứng nhiễu tâm)”. (16)
Cuối cùng, Breuer tuyên bố: “Cái giường vợ chồng, ở đàn bà, là nguồn gốc của phần lớn các chứng nhiễu tâm nghiêm trọng”. (17)
Tuy nhiên, như người giới thiệu Toàn tập ủa Freud nhận xét khi bình luận về cuộc xung đột đã tiềm tàng giữa hai người, trong chốn riêng tư Freud đã coi Breuer như một người đầy nghi ngờ và dè dặt, luôn luôn thiếu tin chắc vào những kết luận riêng của mình. Người ta thấy một trường hợp rõ nhất của điều đó ở một bức thư đề ngày 8 tháng 11 năm 1895 gửi bác sĩ Fliess, hồi đó là người tâm giao chính của Freud. Bức thư này, được viết khoảng sáu tháng sau khi công bố Những nghiên cứu về hystêri, viết:
“Mới đây, Breuer đã nói nhiều về tôi tại một cuộc họp của Hội Y học. Ông tuyên bố chuyển sang tin vào một bệnh căn tính dục (của các chứng nhiễu tâm). Tôi đã cảm ơn ông ta trong chốn riêng tư, nhưng ông ta đã phá mất sự thích thú của tôi khi ông ta nói thêm: ‘Dù sao thì tôi cũng không tin vào điều đó!’. Có hiểu được cái gì ở chuyện này không? Tôi thì không” (18)
Người giới thiệu viết rằng người ta có thể hiểu được một cái gì thuộc loại này giữa các dòng chữ về cống hiến của Breuer vào Những nghiên cứu…, nó cho chúng ta thấy chân dung của một người có phần hoảng sợ về những khám phá riêng và nổi bật của mình. Người giới thiệu nhận xét, điều không thể tránh khỏi là Breuer còn bị bối rối hơn, vì ông có linh tính rằng những khám phá sắp tới còn đáng lo ngại hơn nữa; cũng không thể tránh khỏi là, đến lượt mình, Freud cảm thấy mình bị cản trở, bực bội vì những do dự bối rối của người cộng tác với mình.
Với cống hiến cá nhân của ông vào lý thuyết về chứng hystêri và cách chữa trị nó, Freud đã vượt xa mức cao nhất mà Breuer có thể chấp nhận.
Freud ghi nhận điều đó một cách thẳng thắn, nhưng không phải thiếu sự tôn kính đối với người lớn tuổi hơn mình:
“Bằng cách xuất phát từ phương pháp của Breuer như vậy, tôi đã nghiên cứu một cách khái quát về bệnh căn và cơ chế của các chứng nhiễu tâm. Sau đó tôi đã may mắn đạt tới những kết quả quí giá trong một thời gian tương đối ngắn. Tôi buộc phải thừa nhận rằng, vì người ta có thể nói tới nguyên nhân mắc phải chứng nhiễu tâm, nên bệnh căn của nó phải tính đến những nhân tố tính dục” (19)
Đối với Freud, chẳng có gì mới ở đó cả. Trong một bài duy nhất khác do ông công bố về những vấn đề tâm lý học, Các chứng nhiễu tâm tự vệ, ông đã phác thảo theo những gì ông tin rằng sự bảo vệ nhân cách có ý thức và sự yên tĩnh tinh thần chống lại một kích thích tính dục gây rối nhiễu hay bị cấm đoán có thể gây ra những triệu chứng như thế nào. Những triệu chứng này có thể được chuyển hoán thành những hiện tượng khác, hoàn toàn riêng biệt, như trong chứng hystêri; hoặc chúng có thể nằm lại trong ý thức, nhưng mất đi những xúc cảm kèm theo, lúc đó chứng hystêri sẽ gắn với những hành vi khác hay với những ý nghĩ khác có vẻ vô nghĩa, theo lý thuyết về sự liên tưởng sai lạc, sau này sẽ có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với cách hình dung của Freud về những rối loạn ám ảnh-thúc ép; hoặc cuối cùng, những triệu chứng đó sẽ bị hoàn toàn loại bỏ khỏi ý thức bình thường với cái giá phải trả là ý thức bình thường bị phân rã, đưa người bệnh chìm sâu vào trạng thái loạn tâm; hoặc người bệnh sẽ hoàn toàn vô thức, không thể giáp mặt với môi trường hiện thực chung quanh trên một cơ sở thực tế, hoặc anh ta bị mất đi mọi trí nhớ bình thường về căn tính và hoàn cảnh của mình.
Tầm quan trọng của tiểu luận này không phải chỉ là ở những giả thuyết thú vị và cực kỳ tài tình do ông nêu ra, tất cả đều dựa vào những công việc lâm sàng do Freud làm với các bệnh nhân của ông, cũng không chỉ ở những triệu chứng được nêu ra. Điều không kém quan trọng là ở đây, Freud nói lên niềm tin ngày càng sâu sắc của ông rằng tính dục là gốc rễ của mọi chứng nhiễu tâm, và mức độ rối nhiễu cảm xúc tính dục có thể đẻ ra một loại những triệu chứng tâm lý nào đó gắn liền với số lượng năng lượng thần kinh có liên quan.
Sau đó, Freud còn đưa ra một sự phân loại các chứng nhiễu tâm, trong đó một số được coi là nhiễu tâm tức thời (névroses actuelles), đó là những rối loạn về sự cân bằng và thoải mái tâm lý gắn liền trực tiếp và về mặt thể chất với sự hẫng hụt hay sự mất đi quá mức về năng lượng tính dục, còn tất cả những chứng nhiễu tâm còn lại là loạn nhiễu tâm (psychonévroses), trong đó một cơ chế vô thức làm cho sự rối nhiễu chức năng tính dục chuyển hoán thành những triệu chứng phức tạp, gián tiếp nhưng rất dễ bùng nổ và có tính tượng trưng. Ngay trước khi hoàn tất sự cống hiến của mình vào Những nghiên cứu về chứng hystêri, Freud đã chỉ ra tính chất không thể tránh khỏi của việc cắt đứt không những với Breuer, mà cả với phép thôi miên và thậm chí với phép thanh lọc tâm lý (catharsis) nữa:
“Sẽ thật bất công khi gán cho người bạn đáng kính của tôi, Joseph Breuer, một phần trách nhiệm quá nặng trong sự tiến triển này. Do đó, trước hết xin lấy danh nghĩa của tôi để nói thêm những nhận xét sau đây.
Khi tôi định ứng dụng vào một số lớn người nhiễu tâm đã được thôi miên phương pháp chữa trị của Breuer bằng cách phát hiện và giải tỏa, tôi đã vấp phải hai khó khăn mà để giải quyết chúng, tôi phải thay đổi cả kỹ thuật lẫn những quan niệm của tôi: *Những người chắc chắn bị nhiễu tâm và rất có thể chịu sự chi phối của những cơ chế giống nhau không phải tất cả đều có thể thôi miên được; * Tôi phải xác định xem đặc trưng căn bản của hystêri là gì và nó khác với các chứng nhiễu tâm khác ở chỗ nào” (20)
Ở đây cần phải lùi lại để xem xét chi tiết những bước vào khởi đầu, sự cống hiến của Freud cho tâm lý học, lùi lại với những tìm tòi đầu tiên của ông, những tìm tòi phát triển thật nhanh chóng, ngay ở trong một số thuật ngữ mà ông đã dùng để nắm rõ hơn ý nghĩa của khái niệm phân tâm học khi nó vừa hình thành trong óc tác giả của nó. Ở điểm này, Freud đã kết luận rằng chìa khóa để hiểu các chứng nhiễu tâm nói chung, và những triệu chứng hystêri nói riêng, là ở chỗ đi tìm nhân tố vô thức đẻ ra các triệu chứng của bệnh nhân nằm ở bên dưới các triệu chứng đó. Freud đã hiểu rõ rằng bản thân bệnh nhân không thể biết được nhân tố vô thức ấy, nhưng không ai khác ngoài bệnh nhân mới có thể đưa Freud tới sự khám phá ra những triệu chứng đó và, qua đó, tới khả năng làm cho chúng giảm bớt.
Đó là một hiện tượng quan trọng, vì nhân tố then chốt ấy là vô thức, mà dường như nó vẫn là vô thức cho đến khi (ít ra là thế) có những nghiên cứu thấu đáo và thành công làm sáng tỏ nó. Những nghiên cứu này phải tính đến điều này: quá trình làm cho các chất liệu trở thành vô thức hoàn toàn không mang tính ngẫu nhiên, mà trên thực tế đó là một cơ chế tự vệ, nhờ đó mà những chất liệu chứa đựng quá nhiều xúc cảm đã được đặt vào những hồ sơ bí mật: một khu vực tinh thần mà trí nhớ cũng như sự nội quan không thể trực tiếp với tới được.
Kinh nghiệm của Freud về những bệnh nhân của ông cho ông thấy rõ ràng ông đã biết được bản chất căn bản của những chất liệu chứa đầy xúc cảm ấy, và trong tất cả mọi trường hợp, bản chất ấy xét tới cùng là bản chất tính dục. Freud còn chưa đạt tới giai đoạn mà ông có thể chắc chắn rằng nguồn gốc tính dục ấy có từ buổi đầu cuộc sống: vào những năm đầu tiên của cuộc đời. Nhưng ông đã nhận ra rằng sự chống lại tình trạng tái hiện của những chất liệu ấy mang hình thức một sự bất lực của bệnh nhân trong việc hợp tác hơn nữa với sự chữa trị, cũng như đôi khi mang hình thức một sự đối địch rõ rệt đối với người thầy thuốc đề ra việc chữa trị ấy.
Người ta cũng có thể chờ đợi những tình cảm ngược lại, tức là một sự đầu tư tình yêu – có khi mang bản chất tính dục thật sự – vào người thầy thuốc đang chữa trị: một tình yêu tỏ ra có những gốc rễ sâu hơn trong quá khứ mà bệnh nhân không thể nhận ra được, và có trước những triệu chứng của căn bệnh cũng như trước khi người thầy thuốc nhảy vào cuộc để thử chữa trị căn bệnh ấy, thường là rất nhiều năm.
Freud khẳng định rằng những khái niệm như hoạt động tinh thần vô thức, sự dồn nén, sự chống cự và sự chuyển dịch là những cột trụ căn bản của phân tâm học. “Chuyển di” là tên gọi do ông đặt cho sự đầu tư những cảm xúc mạnh mẽ, cho đến lúc đó bị vùi sâu của người bệnh vào người thầy thuốc chịu trách nhiệm chữa trị. Hơn nữa, Freud tạo ra từ “phân tâm học” để mô tả cái phương pháp mà ông tin chắc rằng chỉ riêng việc giải thoát những chất liệu chứa đầy xúc cảm cũng chưa đủ, khi người bệnh không lý giải được và cũng không thừa nhận ý nghĩa đặc biệt của những chất liệu ấy trong cuộc đời của mình và của mối quan hệ giữa chúng với những triệu chứng của mình.
Khi phương pháp phân tâm học có được tên gọi của nó, thì Freud đã từ bỏ hoàn toàn phép thôi miên rồi, nhưng ông vẫn còn ngồi bên cạnh người bệnh và thường đặt bàn tay lên trán người đó để làm tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ mạnh mẽ của ông đối với người bệnh, và nói rằng ông có thể phát hiện ra những liên tưởng, những mắt xích nằm giữa những ý nghĩ đã vùi sâu và những ký ức bị dồn nén của anh ta. Sau một thời gian, Freud nhận thấy rằng phương pháp đó có những bất lợi nghiêm trọng, vì ít nhất nó vẫn giữ lại một yếu tố ám thị, và trong một số trường hợp, nó đưa vào sự chuyển di một yếu tố kích dâm thật sự. Khía cạnh này ở sự phát hiện của Freud đã có những hậu quả rất lâu dài đối với phân tâm học, vì ngay cả hiện nay, nhiều nhà phân tâm học vẫn từ chối khám những bệnh nhân của họ về mặt thể chất, và khi cần khám như vậy, họ thường nhờ tới những đồng nghiệp không có chút quan hệ nào với phương pháp phân tâm học cả.
Chúng tôi đã nói rõ rằng việc xem xét những gì Freud thực sự nói ra đã buộc chúng tôi phải xem xét những gì ông đã làm. Ở đây, cũng như ở mọi việc ứng dụng lý thuyết vào thực nghiệm, kỹ thuật mang một tầm quan trọng hàng đầu. Một sự xen lẫn nhau nào đó là không thể tránh khỏi giữa hai lãnh vực này; nhưng chỉ bằng cách xem xét cả hai theo một cách nhìn lịch sử thì chúng ta mới có thể chứng minh được những tư tưởng của Freud đã phát triển như thế nào; và cuối cùng Freud thấy có thể đưa ra cái được gọi là lý thuyết chung của phân tâm học, cũng như kỹ thuật và những ứng dụng của nó như thế nào. Bằng cách đó chúng ta có thể gặt hái những tri thức mà Freud đã đem lại cho chúng ta, những tri thức đó sẽ được xem xét dưới đây, trong cuốn sách này. Còn bây giờ, chúng ta chỉ cần nói tới điểm mà Freud đã đạt tới hồi đó, như chúng ta vừa xem xét sự nghiệp của ông: chúng ta đã thấy được sự nảy sinh của những tư tưởng mới và xuất sắc, nhưng chúng ta còn phải khám phá toàn bộ hậu quả của những tư tưởng ấy, và phải xem những tư tưởng ấy được đưa vào một lý thuyết hoàn chỉnh, triệt để về đời sống tinh thần như thế nào. Nghĩa là sau đó Freud sẽ đi tới đâu?
Ở đây chúng tôi không bàn tới những gì đã xẩy ra trước khi Freud rời bỏ phòng thí nghiệm để sang mở phòng khám. Ở phòng khám, trước tiên ông làm những chức năng của một nhà thần kinh học; ông khám cho những bệnh nhân của mình giống như mọi thầy thuốc khác đã làm trong giai đoạn này của lịch sử y học, bằng cách dùng tay, dùng mắt, dùng tai, dùng mũi, dùng những dụng cụ đơn giản như ánh sáng, thấu kính, âm thoa, mỏ vịt, búa thử phản xạ và ống nghe. Nhiều bệnh nhân khi khám không cho thấy một dấu vết thương tổn cấu trúc nào cả; vì thế thật khó phân biệt họ với những người mạnh khỏe về mặt này. Loại bệnh nhân ấy không đem lại một hứng thú nào về y học cho các bác sĩ cả, vì họ không thể hy vọng được theo dõi một cách kiên nhẫn và nhã nhặn mãi. Thông thường họ được mời đi ra, hoặc với sự bảo đảm rằng họ hoàn toàn khỏe mạnh, hoặc với lời nói rằng tất cả những gì họ phải làm là cốt để khá lên đôi chút mà thôi; thậm chí họ bị mắng mỏ vô cớ, mà than ôi! y học vẫn chưa hoàn toàn cấm được điều đó và, chính là bằng những sự mắng mỏ ấy, người ta cho những bệnh nhân đang phàn nàn về sự tuyệt vọng của họ biết rằng không những sự tuyệt vọng ấy không có cơ sở gì hết, mà họ còn làm mất thời gian của mình cũng như của thầy thuốc khi yêu cầu một sự giúp đỡ nào đó.
Chính vào lúc đó Freud lại sử dụng thôi miên và nhiều cách trị liệu vật lý khác nhau mà hồi đó được gọi là liệu pháp điện (***), hai cách chữa trị này đã thành qui ước và truyền thống trong sự chữa trị các bệnh nhân nhiễu tâm. Hồi đó, ngay cả những người nhiễu tâm cũng chỉ là một nhóm người mắc các chứng bệnh chưa được y học thừa nhận: những chứng bệnh có nguồn gốc ở một rối loạn chức năng hơn là rối loạn cấu trúc.
Người ta đã biết tới thôi miên từ buổi đầu thực tiễn y học. Khi sử dụng nó, Freud thử nắm lấy thứ kỹ thuật huyền bí nhưng đáng ngờ ấy. Lý do gần nhất của tai tiếng xấu này chính là đến từ Viên, nơi người ta còn nhắc tới điều đó một cách xấu hổ và khó chịu. Trước đó khoảng một trăm năm, một người Áo tên là Anton Mesmer, sinh ở Weil gần hồ Constance ngày 23 tháng 5 năm 1733, sau khi trải qua những phát hiện mới mẻ về điện và từ. Chính xuất phát từ đó, ông đã xây dựng lý thuyết và kỹ thuật của mình về chữa trị những rối loạn thần kinh, dựa vào cái mà ông gọi là “từ tính động vật” (magnétisme animal).
Về căn bản, đây là một kỹ thuật thôi miên được thực hành bằng nhiều bộ điệu nhố nhăng và ám thị mà có lẽ chính Mesmer cũng tin vào, tuy người ta thường coi ông như một gã lăng băm bạo gan, gây hấn và láu cá. Những lý thuyết của ông dựa vào quan niệm cho rằng vũ trũ chứa đầy một chất lỏng từ tính, thâm nhập mọi cái, mang ảnh hưởng của các thiên thể. Mesmer đoán chắc rằng ông ta có thể điều khiển sự cân bằng và những hiệu lực của chất lỏng ấy bằng quyền năng cá nhân ông ta. Ông ta xây dựng một bộ máy giống như một cái chảo nung những chiếc đũa sắt rồi lấy chúng ra. Những chiếc đũa sắt này được các bệnh nhân nắm lấy và chuyền tay này sang tay khác, làm như vậy sẽ đặt các bệnh nhân dưới ảnh hưởng chiếc đũa từ tính được Mesmer dùng để hướng dẫn chữa trị.
Năm 1784, Viện hàn lâm khoa học Pháp điều tra về những hoạt động của Mesmer và đi tới kết luận như sau: “Tưởng tượng cộng với từ tính đẻ ra những co giật; từ tính không có tưởng tượng chẳng đẻ ra gì hết”. Điều đó làm cho Mesmer nổi khùng lên, vì ông luôn luôn có ý thức rất mạnh về phẩm giá và về vị thế của mình. Nhưng, dù ông bị hoài nghi và chế giễu thật mạnh, uy tín cá nhân của ông vẫn còn và những kết quả ông đạt được vẫn là đối tượng của một sự nghiên cứu kỹ lưỡng của những thầy thuốc riêng biệt.
Hơn nữa, Mesmer đáp ứng được những nhu cầu hiển nhiên hồi đó. Trên thực tế, đó là việc chữa trị duy nhất có thể có đối với các chứng nhiễu tâm, nghề y không quan tâm gì tới sự chữa trị ấy, cũng không đề xướng ra điều gì hết, còn các thầy tu và quan tòa thì đã rút lui khỏi sân khấu với sự kết thúc kỷ nguyên của những ngược đãi. Các công trình của Pinel, Tukes, Benjamin Rushu và những người khác ở châu Mỹ luôn luôn chủ yếu bàn tới những kẻ điên đã được xác nhận; thế mà tỉ lệ số người mắc các rối loạn tinh thần, ngoài những bệnh viện mới dành cho các bệnh tinh thần ra, hồi đó có lẽ không thấp hơn tỉ lệ hiện nay, và số người này đã tìm cách làm giảm bớt bệnh tật ở bất cứ đâu họ có thể tìm thấy, giống như hiện nay.
Mesmer rời Viên đi Paris vào cuối thế kỷ XVIII, gần 100 năm trước khi Freud tiến hành những công trình nghiên cứu của mình về các bệnh thần kinh. Nhưng Viên vẫn còn rất nhạy cảm với sự xấu hổ và chế giễu mà Mesmer đã mang lại cho y học ở đó, không phải vì Mesmer bị thất bại, mà vì ông đã thành công trong nhiều trường hợp nhờ áp dụng những kỹ thuật mà người ta có thể chứng minh tính chất không khoa học, cũng như tính chất trình diễn không ngượng ngùng của chúng. Việc khôi phục phép thôi miên trong thực tiễn y học, tiếp theo việc tách hẳn kỹ thuật ấy khỏi mớ hỗn tạp từ tính động vật, chủ yếu là do những nhà thực hành như Liebault và Bernheim ở Pháp, James Braid, Elliottson, cũng như một thầy thuốc người Anh có tên là Esdaille thuộc công ty Đông Ấn, thực hiện. Những sự chứng minh nổi tiếng của Charcot ở bệnh viện Salpêtrière tại Paris đã không thua kém những sự chứng minh của Mesmer về hiệu quả trình diễn; nhưng chúng không nhằm để chữa bệnh. Tuy vậy, tiếng tăm của Charcot như một nhà thần kinh hồi đó là sự bảo trợ tốt nhất cho việc dùng lại phép thôi miên trong khoa thần kinh học.
Mùi vị lang băng gắn với phép thôi miên vẫn dai dẳng ở Viên, nơi nó được nhận ra với một sự nhạy cảm đặc biệt. Khi Freud từ Paris trở về và có ý định một lần nữa sử dụng phép thôi miên – nhưng theo một lối tương đối ít chính thống – thì điều đó lại có thể gây ra sự chống đối của những bệnh nhân khiến họ chối bỏ những triệu chứng của họ một cách hoàn toàn độc đoán và những ý kiến của Freud chắc chắn sẽ gây ra một mối ác cảm. Liệu pháp điện, tuy cũng có nguồn gốc tương tự những lập luận trừu tượng của Mesmer về từ tính và chiêm tinh học, là một kỹ thuật đáng tôn trọng hơn nhiều. Nhưng Freud lại thấy nó tuyệt đối không có hiệu quả. Đôi khi nó đem lại một vẻ giảm bớt được bệnh, nhưng Freud lại coi đó chỉ là do những tác động của sự ám thị. Những nhận xét dưới đây của ông, có liên quan trực tiếp với sự từ bỏ của ông đối với phép thôi miên cũng như liệu pháp điện, là rất có ý nghĩa:
“Người nào có thể sống được bằng thực hành chữa trị các bệnh nhân thần kinh rõ ràng là có thể làm một điều gì đó cho họ. Kho liệu pháp của tôi chỉ chứa có hai thứ vũ khí: liệu pháp điện và liệu pháp thôi miên, vì việc gửi bệnh nhân đến một cơ sở liệu pháp nước (hydrothérapique) chỉ sau một lần khám không phải là hoàn toàn có lợi. Về liệu pháp điện, tôi tìm hiểu nó ở sách giáo khoa của W.Erb, cuốn sách này cung cấp những hướng dẫn chi tiết về chữa trị tất cả các triệu chứng của các bệnh thần kinh. Khốn thay, chẳng bao lâu tôi phải nhận ra rằng việc theo đúng những gì tôi coi là kết quả của những quan sát chính xác chỉ là một tòa nhà huyễn hoặc. Việc phát hiện ra một cuốn sách do một người có tên tuổi nhất của khoa bệnh lý thần kinh Đức ký tên cũng chẳng có quan hệ với thực tế gì hơn một cuốn cẩm nang đoán mộng “Ai Cập” được bán ở các hiệu sách bình dân của chúng ta, chẳng hạn. Việc phát hiện ấy tuy đau đớn, nhưng nó giúp tôi bỏ mất đi phần nào lòng tin ngây thơ vào những người có uy tín mà tôi chưa độc lập được với họ. Vì thế, tôi phải gác bỏ dụng cụ điện sang một bên, ngay cả trước khi Moebius phát ra những lời có tác dụng giải thoát này: những thành công của việc chữa trị bằng điện – nếu có – thì chỉ là do ám thị y học mà có.
Tình hình có vẻ tốt hơn với thôi miên. Khi còn là sinh viên, tôi đã dự một buổi thực hành của ‘nhà thôi miên’ Hansen, và tôi thấy rằng một trong những người được ông thử nghiệm tái xanh đi như một người chết, khi người đó rơi vào trạng thái bị thôi miên và cứ như thế cho đến khi hết trạng thái ấy. Điều đó đem lại một cơ sở vững chắc để tôi tin vào tính hiện thực của những hiện tượng thôi miên. Chẳng bao lâu sau đó, quan niệm này được nhân vật khoa học nổi tiếng là Heidenhain tán thành, nhưng điều đó không ngăn cản các giáo sư tâm bệnh học tuyên bố trong một thời gian dài nữa rằng thôi miên là một kiểu lang băm, hơn nữa, là kiểu lang băm tai hại, và họ khinh miệt những nhà thôi miên với một thái độ cao ngạo. Tôi đã nhìn thấy ở Paris người ta không ngần ngại dùng thôi miên để tạo ra các triệu chứng ở các bệnh nhân, và để giải thoát họ khỏi những triệu chứng ấy sau đó. Lúc đó, chúng tôi được tin ở Nancy đã ra đời một trường phái sử dụng rộng rãi sự ám thị có hay không có thôi miên, và phương pháp này đã đặc biệt thành công về những mục đích trị liệu. Thế là, hoàn toàn đương nhiên, trong những năm thực hành y học đầu tiên của tôi, – không tính đến những phương pháp trị liệu tâm lý được dùng đôi khi không có hệ thống lắm, – ám thị trở thành công cụ làm việc chính của tôi.
Do đó, tôi đã từ bỏ việc chữa trị các bệnh thần kinh hữu cơ, nhưng cũng chẳng bị thiệt hại gì lớn hơn cả. Vì, một mặt, việc chữa trị những trạng thái ấy không hề đem lại những triển vọng thật thích thú nào, và mặt khác, trong việc thực hành riêng của một thầy thuốc sống ở thành phố, con số bệnh nhân ít ỏi thuộc loại đó mất đi trước con số rất lớn những người bị nhiễu tâm ngày càng tăng lên, vì những bệnh nhân này không tìm được sự cứu chữa nên đã chạy hết thầy thuốc này sang thầy thuốc khác. Hơn nữa, việc dùng phép thôi miên thật hấp dẫn. Lần đầu tiên người ta cảm thấy vượt qua được sự bất lực của mình, và danh tiếng một nhà thần thông nghe rất sướng tai. Sau đó tôi mới phát hiện ra những khuyết điểm của phương pháp ấy là thế nào. Còn lúc đó, tôi chi có thể tự phàn nàn về hai điều: thứ nhất, người ta không thể thôi miên tất cả các bệnh nhân; thứ hai, không thể đưa mọi người chìm sâu vào thôi miên như mong muốn. Với ý định hoàn chỉnh kỹ thuật thôi miên của mình, tôi đi Nancy vào mùa hè 1889 và ở lại đó nhiều tuần lễ. Tôi đã nhìn thấy ông già gây xúc động Liébeault chữa trị cho những người đàn bà và trẻ con nghèo khổ thuộc dân vô sản; tôi đã chứng kiến những thí nghiệm đáng kinh ngạc của Bernheim ở những bệnh nhân thuộc bệnh viện ông, và chính ở đó tôi đã có ấn tượng mạnh nhất về khả năng có những quá trình tâm thần bị che giấu đối với ý thức con người. Để học, tôi đã đưa đi theo mình một nữ bệnh nhân tới Nancy. Đó là một người mắc chứng hystêri rất rõ, có tài năng, được người ta giao cho tôi vì chẳng biết chữa cho người đó như thế nào. Bằng ám thị thôi miên, tôi đã làm cho người đó sống bình thường, và cứ mỗi lẫn người đó rơi vào trạng thái khốn khổ của mình ấy là tôi lại có thể nâng đỡ lên. Vì người đó luôn luôn bị tái phát sau ít lâu, nên vì ngu dốt, tôi vẫn coi điều ấy là do cơn thôi miên chưa đạt tới mức mộng du kèm theo chứng mất trí nhớ. Nhiều lần Bernheim thử đưa người đó chìm sâu vào thôi miên, nhưng ông cũng không thành công hơn tôi. Ông thẳng thắn thú nhận với tôi rằng ông chỉ đạt được những thành công lớn về trị liệu bằng ám thị khi thực hành tại bệnh viện của ông, còn đối với những bệnh nhân ở ngoài thì chưa bao giờ thành công cả…
Để bổ sung bản trình bày này của mình, tôi xin thú nhận rằng ngay từ lúc đầu tôi đã dùng một cách thôi miên khác, ngoài cách ám thị thôi miên ra. Tôi đã dùng nó để thăm dò tâm hồn bệnh nhân có liên quan với lịch sử bệnh và với sự phát sinh bệnh của bệnh nhân, mà trong trạng thái thức tỉnh, bệnh nhân thường hoàn toàn không thể cho tôi biết, hoặc cho biết không đầy đủ. Cách thôi miên ấy dường như không chỉ có hiệu quả hơn cách ám thị đơn giản vì cách ám thị này chỉ có tác dụng ra lệnh hay tự vệ: nó còn thỏa mãn sự khao khát hiểu biết của thầy thuốc, người có quyền biết một điều gì đó có liên quan với nguồn gốc của hiện tượng mà mình tìm cách chữa trị bằng phương pháp ám thị đơn điệu”. (21)
Trong tất cả những trước tác của mình, Freud nói rất ít tới kỹ thuật thôi miên mà ông đã thật sự dùng tới. Đúng là điều đó chẳng quan trọng gì về mặt phân tâm học, vì thôi miên đã bị hoàn toàn từ bỏ trước khi phân tâm học thật sự ra đời. Nhưng thời kỳ chuyển tiếp từ sự thanh lọc (catharsis) và thôi miên đến phương pháp phân tích rạch ròi và hoàn chỉnh thật là thú vị. Trong thời kỳ này, Freud có thói quen ngồi phía sau bệnh nhân và dùng một kỹ thuật mà ông vừa mới đặt tên là kỹ thuật ép (technique de pression).
Bệnh nhân nằm dài trên đi-văng, Freud thì cúi về phía trước và đặt tay lên trán bệnh nhân, hay đặt hai tay lên hai bên đầu bệnh nhân; ông nói với bệnh nhân rằng, dù có gặp sự chống cự như thế nào thì rồi cũng sẽ bị sự thúc ép ấy khắc phục, khiến cho bệnh nhân lúc đó sẽ nhận ra được ý nghĩ hay ký ức mà mình đã quên.
Freud dùng kỹ thuật này để phá bỏ những sự tắc nghẽn trong những liên tưởng bằng lời của bệnh nhân, những liên tưởng ấy đưa tới những quá trình tinh thần vô thức riêng của chúng. Đến một điểm nào đó trong hoạt động của mình, Freud thấy rằng phương pháp ép tỏ ra có tác động trong tất cả các trường hợp và có thể vượt qua tất cả mọi khó khăn. Ông đã chuyển vào phương pháp này một dấu vết thú vị từ những thí nghiệm chữa trị đầu tiên bằng thôi miên của ông, tức là khi một ý nghĩ hay một ký ức dường như không thể nắm bắt được, khiến cho sự thúc ép trở nên cần thiết để nhớ lại, thì kết quả của sự thúc ép ấy có nhiều khả năng trở thành một hình ảnh trội hơn mọi cái trong đầu óc bệnh nhân. Những bệnh nhân ở trong trạng thái thôi miên như vậy thường nhìn thấy lại những cảnh tượng đã qua, đã bị quên đi cho tới lúc đó, có ý nghĩa hàng đầu đối với những chất liệu được xem xét.
Nhưng ở đây, Freud đã vấp phải những khó khăn mới, khi thì vì không một cảnh tượng nào, không một sự sực nhớ lại nào có thể trở lại nữa, khi thì vì bệnh nhân có xu hướng coi nhẹ những gì họ vẫn coi như những mẫu nhỏ chẳng quan trọng gì. Bằng cách tiếp tục những thúc ép của mình, Freud đôi khi nhận được những câu trả lời mà thoạt tiên hoàn toàn không thể giải thích được. Có lần, một nữ bệnh nhân của ông, khi được ông hỏi xem có nhìn thấy hay có nhớ lại cái gì do sức ép của bàn tay không, đã trả lời rằng:
“Chẳng thấy gì hết, nhưng bỗng nhiên tôi nghĩ tới một từ. (– chỉ tới một từ thôi à?) – Vâng, nhưng tôi thấy nó quá tồi tệ. (– Thì cứ nói ra xem.) – Đây này, từ ấy là người gác cổng. (– Chẳng có từ nào khác sao?) – Không.
Tôi lại ép lần thứ hai và một từ khác đi qua đầu bà ta: ‘áo sơ mi’. Lúc đó tôi thấy ở đây có một cách trả lời mới, và bằng một sự thúc ép nữa, tôi gợi ra được bà nói lên một loạt từ có vẻ vô nghĩa: “Người gác cổng, áo sơ-mi, cái giường, thành phố, xe bò, – Tất cả những cái đó là thế nào?” Bà ta suy nghĩ một lát, rồi một ý nghĩ chợt đến với bà ta: “Đây chỉ có thể là một câu chuyện gì đó mà chắc tôi sắp nhớ lại được. Hồi tôi lên mười, một người chị kề sát tuổi tôi – chị ấy mười hai tuổi – lên một cơn điên loạn vào một đêm nào đó. Người ta phải trói chị ấy lại và chở chị ấy ra thành phố bằng xe bò. Tôi nhớ chắc chắn rằng người gác cổng đã giữ chặt chị ấy và đưa chị ấy vào nhà chữa bệnh”. Chúng tôi kiên nhẫn làm theo phương pháp nghiên cứu của mình và bà ta còn nói cho chúng tôi nghe những lời khác mà chúng tôi không hiểu được hết, nhưng lại cho phép chúng tôi theo dõi câu chuyện đó và còn hỏi bà ta được một câu chuyện khác nữa. Chẳng bao lâu, chúng tôi nắm được ý nghĩa của những câu chuyện bà ta sực nhớ ra ấy. Nếu căn bệnh của người chị đã gây ấn tượng đối với bà ta mạnh đến thế, thì đó là vì cả hai người có chung một điều bí mật gì đó; cùng nằm ngủ một phòng, trong đêm ấy, cả hai đều là nạn nhân của ý đồ cưỡng hiếp từ cùng một người đàn ông. Việc nhớ lại chấn thương tính dục vào thời còn rất nhỏ ấy đã cho phép khám phá ra không chỉ nguồn gốc của những ý nghĩ ám ảnh đầu tiên, mà cả chấn thương gây bệnh sẽ tác động sau đó. Ca độc đáo này không phải là sự xuất hiện những từ quan trọng riêng biệt mà sau đó chúng tôi phải dựng thành câu, vì tình trạng thiếu những liên hệ và quan hệ đã ảnh hưởng tới tất cả các ý nghĩ, tất cả các cảnh tượng nói chung do sự thúc ép gợi ra, cũng giống như nó ảnh hưởng tới những từ được phát ra những lời sấm truyền. Sau đó, chúng tôi đã có thể chắp lại được những điều sực nhớ lại rời rạc ấy bằng những liên hệ ý tưởng chặt chẽ với nhau, và những điều sực nhớ lại ấy đã đưa thẳng tới chỗ hiểu được nhân tố gây bệnh đang được tìm kiếm.
“Tôi thường coi đó là một trường hợp phân tích trong đó niềm tin của tôi vào những kết quả của sự thúc ép đã bị thử thách gay go để sau đó mới được chứng minh một cách rực rỡ”. (22)
Nhưng khi một hình ảnh thị giác xuất hiện dễ dàng như vậy, Freud hiểu rằng đó chỉ mới là một khúc dạo đầu cho những liên tưởng quan trọng bằng lời lẽ sau đó. Freud thấy rằng: “bệnh nhân chỉ nhớ được hết hình ảnh ấy bằng cách biến nó thành từ ngữ mà thôi”. Thế là đã xuất hiện kỹ thuật hoàn chỉnh về liên tưởng tự do. Nhưng về sau, khi tiếp tục việc chữa trị mà ông đã mô tả ấy, Freud lại trở về với vấn đề sự chống cự, rồi lần đầu tiên đề cập tới khái niệm chuyển dịch.
Ông kể lại mình đã hiểu được: “một cách ngạc nhiên rằng anh ta (thầy thuốc) không thể áp đặt cho bệnh nhân những gì có liên quan với những điều mà bệnh nhân cho là đã quên đi, cũng không thể ảnh hưởng tới những kết quả phân tích bằng cách gợi ra điều mình mong đợi theo một hướng nào đó… Một nhận xét khác mà mỗi lần người ta có dịp làm có liên quan với những sự nhớ lại mà bệnh nhân nói ra một cách thoải mái. Có thể khẳng định rằng mọi sự sực nhớ lại xuất hiện trong những loại phân tích ấy đều có tầm quan trọng riêng của nó. Không bao giờ những hình ảnh thiếu những liên kết với nhau lại hiện lên chồng chéo theo một lối nào đó với những hình ảnh nhớ lại quan trọng. Không thể vi phạm qui tắc này bằng cách khẳng định rằng việc có những ký ức mặc dầu tự chúng chẳng có ý nghĩa gì cả nhưng vẫn là tuyệt đối cần thiết. Thật ra, những ký ức này là những khâu trung gian cần thiết giữa hai ký ức có những quan hệ quan trọng với nhau, và sự liên tưởng chỉ có thể được thực hiện qua sự trung gian ấy”. (23)
Những sự hứa hẹn của phương pháp này, những kết quả xuất sắc nó đạt được, đã đưa Freud tới chỗ bỏ toàn bộ thời gian vào những cuộc gặp bệnh nhân – những lần gặp này thường kéo dài từ hai mươi đến năm mươi phút với từng bệnh nhân, cứ mười lăm này, một tuần lễ một lần, hay có khi một tuần nhiều lần, cho đến lúc nào bệnh nhân chấp nhận nhớ lại và vấn đề còn chưa được giải quyết. Nhưng dù bệnh nhân cứ trả tiền, dù Freud làm việc căng thẳng với phương pháp phân tích mất nhiều thời gian thường là đơn điệu và lặp lại một cách buồn tẻ ấy, ông ngày càng thấy ra rằng, trái với tất cả những lợi ích rõ ràng của họ, các bệnh nhân đều bị chi phối bởi những sự chống cự khiến cho việc chữa trị phải bị đình chỉ, tiền thì bị tiêu phí một cách vô ích, còn bệnh thì cứ tiếp diễn, và chính bản thân Freud cũng bị hẫng hụt về những mục tiêu của mình.
Khi viết những lời trên đây ở cuối chương sách về liệu pháp tâm lý đối với chứng hystêri, Freud đã khẳng định rằng khi nào kỹ thuật ép không gợi được một sự sực nhớ lại nào hết, dù người điều trị đã cố gắng bằng mọi cách rồi, thì chỉ còn có hai khả năng:
“ 1. Thật sự không có gì để rút ra từ người được nghiên cứu cả, điều đó được thấy rõ ở dáng vẻ hoàn toàn yên tĩnh của bệnh nhân, hoặc: 2. Thầy thuốc vấp phải một sự chống cự mà anh ta chỉ có thể chiến thắng về sau, còn lúc này thì phải đứng trước một lớp nền mới chưa thể xuyên vào được. Diện mạo căng thẳng của người bệnh được thấy rõ khi đó, thể hiện một sự căng thẳng tâm thần. Nhưng cũng có thể thấy một trường hợp thứ ba, lần này trở ngại không phải ở bên trong, mà là ở bên ngoài. Đó là khi những liên hệ của người bệnh và thầy thuốc của mình bị nhiễu loạn, và khi đó thầy thuốc đứng trước trở ngại lớn nhất phải vượt qua. Nhưng trong mọi sự phân tích quan trọng, có thể vấp phải trở ngại này.
Tôi đã ám chỉ tới vai trò to lớn của cá nhân người thầy thuốc trong việc tạo ra những mô-típ để vượt qua sức mạnh tâm thần của những sự chống cự. Trong nhiều trường hợp, và chủ yếu ở phụ nữ, khi phải giải thích những liên kết các ý nghĩ dâm dục, thì sự cộng tác của người bệnh trở thành một hy sinh cá nhân cần được bù đắp bằng một thứ thay thế nào đó cho tình yêu. Những cố gắng của thầy thuốc, thái độ nhẫn nại tử tế của anh ta phải tạo nên những thứ thay thế đầy đủ ấy.
Trong các trường hợp mà những liên hệ giữa thầy thuốc và người bệnh bị nhiễu loạn, thì sự ngoan ngoãn của người bệnh mất đi, và khi thầy thuốc muốn tìm hiểu về ý nghĩ gây bệnh sắp nảy sinh ra, thì người bệnh cảm thấy rõ những đau đớn mà họ đã tích lũy để chống lại thầy thuốc, và điều đó ngăn cản họ bộc lộ. Theo chỗ tôi biết, khó khăn này chủ yếu xuất hiện ở hai trường hợp:
1. một đau đớn cá nhân, khi người bệnh đàn ông tưởng mình bị coi thường, lăng nhục hay xúc phạm, hay khi người bệnh biết được những ý kiến bất lợi về thầy thuốc của mình hay về phương pháp chữa trị của thầy thuốc. Đó là trường hợp ít nghiêm trọng hơn cả; có thể dễ dàng vượt qua trở ngại bằng cách bình luận và giải thích nó, nhất là khi tính dễ động lòng và tinh thần hoài nghi của những người hystêri thỉnh thoảng có thể bộc lộ ra ở những mức độ bất ngờ;
2. người bệnh đàn bà lo sợ vì quá gắn bó với thầy thuốc của mình, vì mất độc lập của mình đối với thầy thuốc và thậm chí vì lệ thuộc vào thầy thuốc về mặt tính dục. Trường hợp này nghiêm trọng hơn vì bị qui định về mặt cá nhân ít hơn. Lý do của trở ngại này nằm ở ngay trong bản chất của cách chữa trị. Người bệnh có những duyên cơ chống cự mới và điều đó xẩy ra không chỉ khi có một điều sực nhớ lại nào đó, mà cả khi thấy có một ý định chữa trị khác. Khi người ta dùng phương pháp ép, người bệnh thường kêu nhức đầu. Trong phần lớn các trường hợp, nữ bệnh nhân vẫn không biết gì về nguyên nhân chống cự mới của mình và chỉ để lộ ra bằng một triệu chứng hystêri mới. Đau đầu thể hiện sự căm ghét của nữ bệnh nhân đối với mọi ảnh hưởng đối với mình; những biểu tượng nặng nề thường nảy sinh từ nội dung phân tích. Đó là một sự kiện thường xuyên thấy có trong một số phân tích. Sự chuyển dịch sang người thầy thuốc thường được thực hiện bằng một sự liên kết sai” (24)
Về trường hợp sau cùng này, Freud tiếp tục đưa thêm một ví dụ trong đó người nữ bệnh nhân, vào cuối buổi phân tích, bỗng nhiên cảm thấy mình muốn được nhà phân tâm ôm ấp. Hóa ra ham muốn ấy người nữ bệnh nhân đã cảm thấy nhiều năm trước đó nhưng đã dồn nén nó lại; tất nhiên, nó được liên kết với một người đàn ông khác hẳn. Nhưng lúc đầu nữ bệnh nhân ấy chưa thể thừa nhận nó và không thể tiếp tục sự phân tích, vì điều đó làm nghẽn lại dòng ý nghĩ của mình.
Trong tất cả các trường hợp, việc phân tích về chính sự chuyển dịch này gây trở ngại cho con đường đi tới giải quyết khó khăn ấy một cách dứt khoát. Nhưng việc phân tích sự chuyển dịch càng được đẩy tới, thì tất cả những gì có thể làm tăng thêm sự chuyển dịch, đặc biệt là mọi cử chỉ hay tiếp xúc thể chất mà bệnh nhân có thể hiểu như một sự vuốt ve thể chất, dù là vô ý thức đi nữa cũng phải bị từ bỏ. Cuối cùng, Freud gặp các bệnh nhân của mình một cách đều đặn, không bao giờ thôi miên họ nữa, không sờ vào họ nữa, ông chú ý đặc biệt tới ứng xử của mình cũng như của bệnh nhân, dù chỉ là về những mặt bề ngoài thông thường và có ích xã hội của việc khám bệnh như cách bệnh nhân đi vào phòng hay đi ra, tự đóng cửa hay để cho ông đóng cửa, bắt tay hay không bắt tay khi rời khỏi đó. Như vậy, kỹ thuật là lý thuyết của ông bắt đầu ngày càng gắn với nhau theo ý nghĩa vô thức của chúng.
– – –
Chú thích:
(*) Tên một vị tướng nối tiếng xứ Carthage (247 – 138 trước công nguyên) chống quân đội La Mã, đã tự sát vì không chịu để bị nộp cho kẻ thù. (N.D)
(**) Tiếng Pháp trong nguyên bản
(***) Liệu pháp điện ( électrothérapie) vào cuối thế kỷ XIX là một hình thức kích thích đơn giản bằng điện ở những vùng da và cơ, không hề có liên quan gì với việc chữa trị nào bằng điện mà phải 50 sau đó người ta mới phát hiện ra.
Tài liệu tham khảo:
(06). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P. U. F. Breuer et Freud , pp. 127-128
(07). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P. U. F. Breuer et Freud , p.3.
(08). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P. U. F. Breuer et Freud , pp. 3-4.
(09). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P. U. F. Breuer et Freud , p.5.
(10). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P. U. F. Breuer et Freud , p.6.
(11). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P. U. F. Breuer et Freud , p.8.
(12). “Signes de l’immortalité dans les souvenirs de la petite enfance.” Wordsworth.
(13). Macbeth, par William Shakespeare, acte V, scène III.
(14). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P.U.F., pp. 12-13
(15). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P.U.F., pp. 142-143
(16). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P.U.F., p. 159
(17). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P.U.F., p. 200
(18). Lettre à Flicss, 8rr. 1895. La Naissance de la psychanalyse, P.U.F., p. 119.
(19). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P.U.F., pp. 206-207.
(20). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P.U.F., pp. 206.
(21). Ma vie et la psychanalyse, 1925, Gallimard, pp. 22, 23, 24, 25, 27.
(22). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P.U.F., pp. 222-223.
(23). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P.U.F., pp. 239.
(24). Études sur l’hystérie, 1893-1895, P.U.F., pp. 244-245.
rất tuyệt!